CHÚA GIÊSU VÀ THÁNH GIUSE CÓ THỰC SỰ LÀ THỢ MỘC KHÔNG?
Tác giả: Daniel Esparza
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: aleteia.org
WHĐ (6.1.2021) – Nhìn vào bản gốc tiếng Hy Lạp, bản dịch tiếng
Latinh và bối cảnh lịch sử của chính Chúa Giêsu người ta có thể trả lời câu hỏi
này… hay không?
Truyền thống và lòng sùng
kính phổ biến thường mô tả Chúa Giêsu và Thánh Giuse là thợ mộc, làm việc cùng
nhau, chia sẻ cả xưởng làm việc và dụng cụ trong khi đóng ghế dựa, ghế đẩu và
bàn. Thậm chí một số bức tranh trường phái Barốc[1]
của Tây Ban Nha còn cho thấy một Giêsu rất trẻ với một dằm gỗ nhỏ đâm vào ngón
tay, một giọt máu nhỏ chảy ra từ đó, hoặc một Giêsu mang một khúc gỗ trên vai
trong xưởng thợ, như thể báo trước cái chết của Ngài sau đó trên thập
giá. Nhưng đó có phải là những gì bản văn Kinh thánh thực sự muốn nói
không? Nhìn vào bản gốc tiếng Hy Lạp, bản dịch tiếng Latinh và bối cảnh lịch
sử của chính Chúa Giêsu người ta có thể trả lời câu hỏi này hay không.
Dĩ nhiên rồi, hầu hết các bản
dịch sử dụng từ “thợ mộc” để mô tả công việc làm ăn trao đổi của Chúa Giêsu và
Thánh Giuse. Nhưng từ Hy Lạp chúng ta đọc trong Tin mừng Mátthêu và Máccô
có thể được đọc theo nhiều cách khác nhau. Từ mà các Tin Mừng sử
dụng là téktōn, một thuật ngữ phổ
biến được sử dụng cho các nghệ nhân, thợ thủ công và những người làm việc với gỗ
(vì vậy, vâng, chữ đó có thể dịch là “thợ mộc”), nhưng cũng thật thú vị, chữ đó
có thể nói đến thợ xây đá, thợ xây, công nhân xây dựng, ngay cả nói đến những
người xuất sắc trong công việc buôn bán trao đổi của họ và có thể dạy cho những
người khác (như maestro[2]
trong tiếng Ý ). Bản dịch tiếng Latinh mà chúng tôi tìm thấy
trong Thánh Kinh bản Vulgata, faber, thực
sự giữ được những ý nghĩa rất khác nhau mà tiếng Hy Lạp téktōn có được. Một faber là một thuật ngữ chung được sử
dụng cho những công nhân và các thợ thủ công nói chung. Một faber chắc chắn có thể làm việc như
một thợ mộc nhưng chỉ đôi khi thôi, còn một lignarius là một thợ mộc như một nghề phụ.
Giáo sư James D. Tabor, một học
giả Kinh thánh tại Đại học Bắc Carolina, đã gợi ý rằng “người xây dựng” hay ‘thợ
xây đá” sẽ là một cách dịch tốt hơn cho từ téktōn của Hy Lạp trong trường hợp của Chúa Giêsu, vì những
lý do rất cụ thể. Một mặt, lời rao giảng của Chúa Giêsu thường sử dụng các
phép ẩn dụ được truyền cảm hứng từ việc xây dựng: Ngài thường nói đến “đá góc
tường” và “nền móng vững chắc”. Ngoài ra, với thực tế là khu vực nơi Chúa
Giêsu sống và chết không thực sự phong phú về cây cối, và hầu hết các ngôi nhà
trong thời của Ngài đều được xây bằng đá, vì vậy nghĩ rằng Chúa Giêsu và Thánh
Giuse có thể đã làm việc trong ngành xây dựng thì có lý hơn.
Nhưng điều đó cũng không dễ
dàng. Trong bản Septuagint[3]
(bản dịch đầu tiên của Kinh thánh Do Thái từ tiếng Do Thái và tiếng Aram[4]
sang tiếng Hy Lạp), chúng ta thấy từ téktōn
của Hy Lạp đã được sử dụng để phân biệt thợ mộc với các công nhân
khác trong sách tiên tri Isaia, và trong danh sách các công nhân làm công việc
xây dựng hoặc sửa chữa Đền thờ ở Giêrusalem trong quyển thứ hai Sách Các
Vua. Sự phân biệt này đã có từ xưa, vì người Hy Lạp đã thường xuyên sử dụng
từ téktōn để chỉ một người
thợ mộc, sử dụng từ lithólogos cho
thợ đá và từ laxeutés cho
thợ xây. Cách sử dụng phổ biến của từ này được các tác giả của Tin mừng thừa
hưởng, là những người đã quen thuộc với Kinh Thánh Bản Bảy Mươi, nghĩ vậy là hợp
lý.
Nhưng so sánh tiếng Hy Lạp
trong Bản Bảy Mươi với tiếng Do Thái gốc được tìm thấy ở sách tiên tri Isaia
cũng là cần thiết. Từ Hy Lạp téktōn là
từ thường được sử dụng để dịch chữ kharash có
gốc trong tiếng Do Thái, là từ thường được sử dụng cho “thợ thủ công”. Tuy
nhiên, téktōn xylon là cách
dịch từng chữ của tiếng Do Thái kharash-'etsim,
“thợ thủ công chuyên về gỗ”, thực
tế được tìm thấy trong Isaia 44:13. Nhưng học giả kinh thánh Géza Vermes
người Hungary cho rằng có thể téktōn
của Hy Lạp không được dịch từ tiếng Do Thái kharash, mà thay vào đó, nó tương
đương với naggara trong tiếng
Aram. Vermes lập luận, trên thực tế khi Kinh Talmud[5]
gọi ai đó là “thợ mộc”, thì đó có thể ám chỉ một người đàn ông rất uyên
bác. Thế thì, điều này có nghĩa là các tác giả của các sách Tin mừng muốn
chỉ ra rằng Thánh Giuse thực tế là một người đàn ông thông thái, người không chỉ
khôn ngoan mà còn là người giỏi chữ nghĩa Kinh Torah[6],
chứ không có ý nói đến công việc làm ăn của Ngài.
Chú
thích của người dịch:
Aram là ngôn ngữ của Chúa Giêsu, người đã nói Phương ngữ Galilê trong sứ
vụ công khai của Ngài, cũng như ngôn ngữ của các phần lớn trong các sách
kinh thánh của Daniel và Ezra, và cũng là một trong những ngôn ngữ của
Talmud.
Tiếng Do Thái: תַּלְמוּד Talmud nghĩa là "giảng dạy, học tập",
“ nghiên cứu ") là một văn bản trung tâm của giáo sĩ Do Thái giáo
(rabbinic). Toàn bộ kinh Talmud bao gồm 63 bài luận, trong bản in tiêu chuẩn
dài hơn 6.200 trang. Nó được viết bằng tiếng Tanait Do Thái và tiếng Aram.
Talmud bao gồm những ý kiến của hàng ngàn giáo sĩ Do Thái trong nhiều chủ
đề, bao gồm cả pháp luật, đạo đức, triết học, phong tục, lịch sử, thần học,
truyền thuyết và nhiều chủ đề khác. Talmud là cơ sở cho tất cả các bộ luật của
cộng đoàn Do Thái giáo.
Tiếng Hebrew: תּוֹרָה, "Hướng dẫn", "Dạy dỗ",
hoặc những gì thường được dịch là Ngũ Thư, là khái niệm trung tâm trong truyền
thống Do Thái giáo. Torah bao gồm các câu chuyện nền tảng của người Do
Thái: lời gọi của Thiên Chúa để hình thành nên dân tộc họ, những thử thách và
đau khổ của họ, và giao ước của họ với Thiên Chúa, trong đó bao gồm
việc tuân giữ cách sống được hiện thực hóa trong một tập hợp các nghĩa vụ tôn
giáo và luân lý cũng như các luật pháp dân sự (halakha).