"Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại.
Anh ta nói được rõ ràng." (Mc 7, 35)
Bài Ðọc I: Is 35, 4-7a
“Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được”.
Trích sách Tiên tri Isaia
Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Bài Ðọc II: Gc 2, 1-5
“Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo để hưởng nước Người đó sao?”
Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ
Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Ðức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: “Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này”. Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: “Còn anh, anh đứng đó”, hoặc: “Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi”. Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?
Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?
Tin mừng: Mc 7, 31-37
31 Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
32 Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh.
33 Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! 35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
36 Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.
37 Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 23 Thường Niên năm B
WHĐ (05/9/2024) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của lễ Chúa nhật 23 Thường Niên năm B theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
Số 1503-1505: Đức Kitô – thầy thuốc
Số 1151-1152: Những dấu chỉ được Đức Kitô sử dụng; Các dấu chỉ bí tích
Số 270-271: Lòng thương xót của Thiên Chúa
Bài Ðọc I: Is 35, 4-7a
Bài Ðọc II: Gc 2, 1-5
Phúc Âm: Mc 7, 31-37
Số 1503-1505: Đức Kitô – thầy thuốc
Số 1503. Lòng thương cảm của Đức Kitô đối với các bệnh nhân và nhiều việc chữa lành mọi thứ bệnh tật Người đã thực hiện[1] là một dấu chỉ hiển nhiên cho thấy rằng Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Ngài[2] và Nước Thiên Chúa đã gần kề. Chúa Giêsu không những có quyền chữa lành mà còn có quyền tha tội[3]: Người đến để chữa lành con người toàn diện, cả xác cả hồn; Người là thầy thuốc mà các bệnh nhân cần đến[4]. Lòng thương cảm của Người đối với tất cả những người chịu đau khổ, đã đi đến chỗ Người tự nên một với họ: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25,36). Tình yêu đặc biệt của Người đối với những người đau yếu, trải qua các thế kỷ, đã không ngừng khơi dậy sự quan tâm đặc biệt của các Kitô hữu đối với tất cả những ai chịu đau khổ phần xác hay phần hồn. Tình yêu này làm phát sinh những cố gắng không mệt mỏi để nâng đỡ những người đau khổ đó.
Số 1504. Chúa Giêsu thường đòi buộc các bệnh nhân phải tin[5]. Người dùng những dấu chỉ để chữa lành: nước miếng và việc đặt tay[6], bùn đất và việc rửa sạch[7]. Các bệnh nhân tìm cách chạm đến Người[8] “vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6,19). Vì vậy, trong các bí tích, Đức Kitô tiếp tục “chạm” đến chúng ta để chữa lành chúng ta.
Số 1505. Xúc động trước quá nhiều đau khổ, Đức Kitô không những cho phép các bệnh nhân chạm đến Người, mà còn lấy những đau khổ của chúng ta làm của Người: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17)[9]. Tuy nhiên, Người đã không chữa lành tất cả các bệnh nhân. Những việc chữa lành của Người là những dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đang đến. Chúng loan báo một sự chữa lành triệt để hơn: đó là sự chiến thắng tội lỗi và sự chết, nhờ cuộc Vượt Qua của Người. Trên thập giá, Đức Kitô đã mang vào thân thể Người tất cả gánh nặng của sự dữ[10] và Người đã xoá “tội trần gian” (Ga 1,29), mà bệnh tật của trần gian chỉ là một hậu quả. Bằng cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá của Người, Đức Kitô đem lại cho đau khổ một ý nghĩa mới: từ nay đau khổ có thể làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Người và kết hợp chúng ta vào cuộc khổ nạn sinh ơn cứu chuộc của Người.
Số 1151-1152: Những dấu chỉ được Đức Kitô sử dụng; Các dấu chỉ bí tích
Số 1151. Những dấu chỉ được Đức Kitô sử dụng. Khi giảng dạy, Chúa Giêsu thường sử dụng những dấu chỉ của công trình tạo dựng để giúp nhận biết các mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa.[11] Người chữa lành và minh hoạ lời giảng dạy của Người bằng những dấu chỉ vật chất hay những cử chỉ có tính biểu trưng[12]. Người ban một ý nghĩa mới cho các sự kiện và các dấu chỉ của Giao Ước cũ, nhất là cho cuộc Xuất Hành và lễ Vượt Qua[13], bởi vì chính Người là ý nghĩa của tất cả các dấu chỉ đó.
Số 1152. Các dấu chỉ bí tích. Từ sau Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần thực hiện việc thánh hóa qua các dấu chỉ bí tích của Hội Thánh của Ngài. Các bí tích của Hội Thánh không xóa bỏ, nhưng thanh luyện, đón nhận tất cả sự phong phú của các dấu chỉ và các biểu tượng của thế giới vật chất và đời sống xã hội. Hơn nữa, các bí tích còn hoàn tất những tiên trưng và hình bóng của Giao Ước cũ, biểu thị và thực hiện ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại, và cho thấy trước cũng như cho nếm trước vinh quang thiên quốc.
Số 270-271: Lòng thương xót của Thiên Chúa
“Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự” (Kn 11,23)
Số 270. Thiên Chúa là Cha toàn năng. Tình phụ tử và quyền năng của Ngài soi sáng lẫn nhau. Quả thế, Ngài cho thấy sự toàn năng đầy tình Cha của Ngài qua cách Ngài chăm lo cho những nhu cầu của chúng ta[14]; qua việc Ngài nhận chúng ta làm nghĩa tử (“Ta sẽ là Cha các ngươi, và các ngươi sẽ là con trai, con gái của Ta, Chúa toàn năng phán như vậy”: (2Cr 6,18); sau hết, Ngài bày tỏ rõ ràng quyền năng của Ngài qua lòng khoan dung vô tận, khi Ngài tự ý tha thứ các tội lỗi.
Số 271. Sự toàn năng của Thiên Chúa không hề có tính chất độc đoán: “Nơi Thiên Chúa, quyền năng và yếu tính, ý muốn và trí tuệ, sự khôn ngoan và sự công chính là một. Do đó, không có gì trong quyền năng của Thiên Chúa mà không ở trong ý muốn công chính của Ngài, và trong trí tuệ khôn ngoan của Ngài”[15].
Bài giảng Đức Thánh Cha - Chúa nhật 23 Thường Niên năm B
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 23 Thường Niên năm B (05/9/2021) - Chứng điếc nội tâm
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 23 Thường Niên năm B (09/9/2018) - Ép-pha-tha - Hãy mở lòng mình ra với Thiên Chúa và anh em
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 23 Thường Niên năm B (06/9/2015) - Thiên Chúa không khép kín nơi mình
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 23 Thường Niên năm B (09/9/2012) - Chúa Giêsu đến để chữa bệnh câm điếc của linh hồn
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Ngôn ngữ là phương tiện cần thiết để con người liên hệ với tha nhân và thế giới. Không thể nghe để hiểu, không thể nói để truyền thông tư tưởng, thì chẳng khác gì con người đã chết về mặt tâm lý, trước khi phải chết về mặt thể lý. Ðức Giêsu đã cứu anh câm điếc, và đưa anh trở lại với thế giới vui tươi sinh động này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con cũng bị cắt đứt với thế giới yêu thương tươi mát này, khi chúng con sống ích kỷ, hẹp hòi; khi chúng con ghen tuông, đố kỵ... Xin Chúa giúp chúng con mở tai để lắng nghe tiếng Chúa, tiếng kêu cứu của tha nhân. Xin cho chúng con biết mở miệng ra để ca tụng Chúa, để an ủi, để trao niềm vui cho anh chị em chúng con. Nhờ đó, cuộc đời chúng con mới bước đi trong hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Có nhiều khi tôi tự hỏi: Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy cuộc đời mình sẽ ra sao? Tôi lại nghĩ: Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.
Kinh Thánh Kitô Giáo của mình trình bày con người là một sinh vật được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn độc, cô đơn. Nhưng mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông trong yêu thương. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để cuộc sống của mình sẽ vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông với cả vũ trụ. Đến lúc ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.
Để tiến tới sự hiệp thông chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Đồng thời chúng ta có thể nghe được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn.
Như vậy, nếu chúng ta không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập vào thế giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đấy chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta không biết tạ ơn.
Chúng ta có miệng và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc theo nghĩa toàn diện không? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”. Thực sự vậy, nếu chúng ta quay lại định nghĩa của Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và ngôn ngữ là phương thế để dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Rất nhiều khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì nó lại ngăn cản và có thể sẽ huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc theo nghĩa đó.
Một hôm, đọc sách báo tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người phụ nữ đã có chồng 5 con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẫu mắt. Suốt ngày đêm chị than thân trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến ai, kể cả những bệnh nhân nằm chung phòng. tuần sau có một phụ nữ khác nhập viện nằm gần chị. Người phụ nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến khích nâng đỡ chị suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con đến thăm chị, người phụ nữ mới vào sau nói với chị “Này Chị ơi! Chị phải biết là chị may mắn và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm và chăm sóc chị”. Câu ấy làm cho chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy. Biết bao nhiêu người quan tâm đến chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả những người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai thăm nuôi. Vậy mà chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi mình. Chị cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi chị ấy. Nhưng đã muộn. Chị ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng chị đọc được lá thư người bạn gởi cho mình. Nội dung bức thư:
“Bạn thân mến, cảm ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh phúc trong tình bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù bạn không nhìn thấy tôi. Đôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã đánh gục chúng ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này tôi cầu xin Chúa cho chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như chị thường thấy. Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của chị sẽ phong phú hơn.”
Chúng ta có đôi tai rất thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không nhìn bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe bằng con tim.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, trẻ thơ bơ vơ.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương, nói lời hoà giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học, hận thù, độc ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những câm điếc này chúng ta phải cầu nguyện: “Lạy Chúa xin cho con được nói, xin cho con được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra”.
Không phải chúng ta chỉ nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa hơn nữa. Chúa Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta thi hành tác vụ chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa được như Chúa. Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên cái miệng cho người câm.
Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Đức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nước mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.
Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có thể giúp đỡ người khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu, chúng ta cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho người khác nghe đựơc lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích.
Hôm nay tôi chỉ mời anh chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đồng thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài.
Tôi xin anh chị em hãy nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện. Đây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa” và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đấy chính là dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói: Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi cảnh câm điếc.
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
NGƯỜI CHỮA HỌ KHỎI CÂM ĐIẾC
A. DẪN NHẬP
Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc, để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Đức Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
Người bị câm điếc thiêng liêng là những người không biết mở tai ra mà đón nhận Lời Chúa, mà cũng không biết mở miệng ra mà tôn vinh danh Chúa. Những người bị câm điếc thể lý thì ai cũng biết kể cả đương sự, còn những người bị câm điếc thiêng liêng thì không ai biết và ngay chính đương sự nhiều khi cũng không biết. Đó là những người thiếu đức tin, họ sống trong mù tối không biết gì đến Lời Chúa.
Chúng ta cầu xin Chúa mở tai và mở miệng lưỡi linh hồn chúng ta, để biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa. Đồng thời cũng biết đón nhận và chia sẻ cho người khác trong sự quảng đại, hy sinh và tình thương mến chân thành. Chúng ta hãy kêu lên:“Lạy Chúa, xin làm cho con nghe được, và xin làm cho con nói được”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 35,4-7a
Dân Do thái đang phải sống kiếp lưu đầy khổ sở tại Babylon, nhiều lúc nản lòng vì tương lai còn mù mịt. Nhưng thời gian thử thách sắp kết thúc. Isaia loan báo tin vui cho họ bằng những hình ảnh của miền Đông phương nhằm khơi dậy niềm hy vọng của họ.
Những hình hình cụ thể như người điếc nghe được, người què đi được, người câm nói được nhắc nhở cho họ biết: những khả năng tự nhiên ấy của họ đã bị tước đoạt, nay Thiên Chúa phục hồi cho họ để cho họ có thể nghe và nói được trong tình trạng tự do. Những hình ảnh tiên báo của tiên tri Isaia cho người Do thái sẽ được thực hiện đầy đủ do Đức Giêsu Kitô trong bài Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2: Gc 2,1-5
Một số cộng đoàn Kitô hữu thời đó có thói quen dành chỗ ưu tiên cho người giàu mà lại bỏ quên người nghèo. Thánh Giacôbê phản ứng mạnh mẽ vì thói quen ấy đi ngược với tinh thần của Đức Kitô. Phẩm giá của người nghèo bị chà đạp, trong khi chính họ là những người được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn.
Tính thiên vị luôn gây phẫn uất và chia rẽ. Đây là một quan niệm sai lầm vì dưới cái nhìn của đức tin sự giàu có đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa bằng kho tàng ân sủng tràn đầy nơi các tín hữu.
+ Bài Tin mừng: Mc 7,31-37
Bài Tin mừng thuật lại chuyện Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa câm (ngọng) tại vùng đất dân ngoại. Khi kể lại câu chuyện này, thánh Marcô lấy lại đề tài cổ điển móc nối sự câm điếc với sự thiếu đức tin và việc chữa lành bệnh với thời Thiên sai.
Phép lạ này có giá trị biểu trưng. Thay vì chỉ cần ý muốn để chữa bệnh một cách đơn giản, Đức Giêsu lại dùng những hành động có vẻ lạ kỳ như lấy ngón tay thấm nước miếng và chạm đến lưỡi của người bệnh. Những hành động ấy có ý thêm đức tin cho người bệnh và sau này trong bí tích Rửa tội theo lễ nghi cũ, linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy mà đọc “Epphata”: hãy mở ra.
Người điếc và ngọng trong Tin mừng hôm nay tiêu biểu cho tất cả mọi người điếc câm thiêng liêng mà Đức Giêsu sẽ chữa cho khỏi những nết xấu và tội lỗi. Giáo hội cũng muốn dùng bài Tin mừng hôm nay để nhắc nhở cho các tín hữu phải biết lắng nghe tiếng Chúa và phổ biến Lời Chúa cho người khác.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Những ai bị câm điếc?
I. BỆNH CÂM ĐIẾC THỂ LÝ
1. Một ân ban của Thiên Chúa
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Ngài ban cho họ có linh hồn và thân xác. Thân xác con người là một sinh vật hoàn hảo nhất, có đầy đủ ngũ quan. Trong ngũ quan ấy, ta thấy tai và miệng là hai cơ quan rất quan trọng dùng để nghe và nói.
Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường trở thành trò cười cho người khác, bởi vì không hiểu đúng ý của người nói, cho nên trả lời hoặc phản ứng thường sai lệch. Người ta gọi những người ấy thuộc hạng “Ông nói gà bà nói vịt” (tục ngữ). Bởi vậy, người khiếm thính thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn.
Nó là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp hằng ngày. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ. Vì vậy nghe được và nói được là hồng ân rất lớn Chúa ban cho con người. Chúng ta phải sử dụng hai khả năng ấy cho phù hợp với thánh ý Chúa.
2. Nguyên nhân bệnh câm điếc thể lý: Thường thường những người mới sinh ra đã bị câm thì cũng bị điếc. Người bị câm và điếc thiệt thòi rất nhiều và mất nhiều hạnh phúc trong cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó.
Theo một vài trường hợp thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Vì thế mới có lời kinh của người điếc:
“Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William Barclay).
3. Tâm lý người bị câm điếc
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bày hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm. Không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
4. Đức Giêsu chữa người câm điếc
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: “Epphata”: Hãy mở ra!
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh mong đợi.
Phép lạ không chú trọng chữa lành thể chất của anh chàng vừa câm vừa điếc. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Chúa, và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.
II. BỆNH CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG
Khi chữa bệnh cho người câm điếc, Đức Giêsu nhằm đem lại cho người ấy khả năng nghe và nói được, nhưng Ngài còn muốn đi xa hơn, nghĩa là chữa bệnh câm điếc tinh thần hay thiêng liêng của con người. Câm và điếc thể chất thì ai cũng biết, còn bệnh câm điếc thiêng liêng thì chỉ có Chúa biết, và đôi khi đương sự cũng biết. Chúng ta cần bàn tới bệnh câm điếc thiêng liêng, mà ai trong chúng ta cũng mắc phải không nhiều thì ít.
Nhiều người rất thính tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần hay tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan tới danh vọng, tiền tài, sắc dục… nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hoạt bát về đủ mọi đề tài… nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên lời hay lẽ phải, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hoà thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
III. ĐỂ KHỎI BỊ CÂM ĐIẾC
1. Bài học cho chúng ta
Đức Giêsu làm phép lạ này như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: “Epphata” nghĩa là hãy mở ra tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được, cũng là bài học cho các môn đệ và chúng ta. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận, vừa thông truyền Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như lời tiên tri Isaia từng nói: “Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh” (Is 50,4).
2. Biết lắng nghe và chia sẻ
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Đức Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
Truyện: Bức tường Bá Linh
Ngày 13/8/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau (Lm. Vũ Khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 175).
Chúa ban cho người câm điếc có thể nghe được và nói được, để anh có thể dùng hai khả năng ấy để chia sẻ với mọi người. Đây là hai ân ban của Chúa. Chúng ta cũng phải dùng ân ban ấy cho đúng, bởi vì trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có cái lưỡi tốt nhưng không biết nói những lời đáng nói. Cho nên chúng ta cần phải được Chúa chữa trị để biết chia sẻ cho nhau.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta lại cố tình tạo ra sự câm điếc, khi chúng ta không bao giờ biết đến anh em, chỉ biết sống ích kỷ, co cụm lại nơi bản thân mình, không để ý đến ai. Do đó, chúng ta trở nên cố chấp trước những lời khuyên bảo của người khác để làm những điều xằng bậy mà không biết hổ thẹn. Những người như thế được người đời tặng cho cái danh hiệu là: “Điếc không sợ súng”. Câu tục ngữ ấy có nghĩa là vì ngu dốt, thiếu kinh nghiệm không hiểu biết, nên chủ quan làm liều làm bừa bãi, không sợ sai lầm nguy hiểm.
Chúa cũng ban cho chúng ta cái lưỡi tốt để nói năng, chúng ta cũng phải biết dùng nó để chia sẻ với nhau vì lời nói là phương tiện chia sẻ với nhau hữu hiệu, có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác.
Dùng lưỡi mà chia sẻ với nhau là một điều tốt, nhưng phải chia sẻ với nhau một cách thành thực chứ không dối trá, bởi vì người ta nói: “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”(tục ngữ) có nghĩa là lưỡi không có xương nên uốn lắt léo thế nào cũng được. Nghĩa bóng của câu này thường được dùng để chỉ người ăn nói trước sau bất nhất, lúc thế này, lúc thế khác.
Ngoài ra, những người ác độc có những lời lẽ rất ngon lành, tốt đẹp nhưng lại hàm ý nghĩa xấu trong đó. Vì thế người ta nói: “Lưỡi mềm độc quá đuôi ong” (tục ngữ), có nghĩa là lưỡi mềm là lưỡi không cứng rắn như đá, không sắc nhọn như dao, lý ưng không có gì đáng sợ vì không làm đau đớn thương tổn được người ta. Ấy vậy mà lưỡi độc quá đuôi ong, châm vào thịt đau buốt và sưng vù lên. Lưỡi nói xấu ai thì người ấy mất bạn bè, mất danh giá; lưỡi vu khống ai thì người ấy bị tù tội, mất cơ nghiệp, có thể mất cả tính mạng (Văn Hoè, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 152).
Trái lại, khi chia sẻ với nhau hãy cố gắng dùng những lời lẽ tốt đẹp mà cư xử với nhau, đem lại cho nhau một niềm vui như người đời thường khuyên:
Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
3. Xin Chúa ban thêm đức tin
Khi Đức Giêsu chữa anh điếc nói ngọng này, Ngài khêu gợi đức tin nơi anh. Chắc chắn là anh ta kém đức tin vì Đức Giêsu phải đem anh riêng ra làm những cử chỉ khêu gợi lên trong lòng anh đức tin rất cần thiết, để ban ơn khỏi bệnh cho anh. Khi đức tin đã nhóm lên trong lòng, Ngài mới làm phép lạ cho anh khỏi bệnh. Điểm chúng ta muốn nói là sở dĩ anh kém đức tin vì anh điếc, không nghe được Lời Chúa. Ngày nay nhiều thanh thiếu niên kém đức tin hoặc đã mất đức tin vì anh điếc hay giả điếc, không nghe Lời Chúa.
Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc. Thế nhưng cô Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều. Nếu chúng ta bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở rađiô thì chả hiểu gì, xem truyền hình thì cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả. Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Bài Tin mừng hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu, để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta.
Nói cụ thể hơn, Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là Tin mừng mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.
Truyện: Thánh Giêrônimô
Hồi ấy, Giêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì về Thiên Chúa. Ngài say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, ngài nghe tiếng Chúa hỏi:
- Giêrônimô, con là môn đệ của ai?
- Thưa, con là môn đệ của Chúa.
- Không phải, con là môn đệ của Cicéron.
Từ đó, Giêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Belem để phiên dịch Thánh kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: “Ai không hiểu biết Thánh kinh là không biết Chúa Giêsu”. Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của Ngài đã được công đồng Triđentinô (thế kỷ 16) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Hội thánh.
4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
VỪA ĐIẾC VỪA NGỌNG
Thời Đức Giêsu, khi chữ viết và sách vở chưa phổ biến,
Một người bị điếc và ngọng sẽ gặp nhiều hạn chế.
Có thể nói hai cánh cửa quan trọng mở ra với tha nhân
là nghe và nói, như hoàn toàn bị khóa lại.
Người khiếm thính chẳng nghe thấy âm thanh gì.
Họ sống trong một sự thinh lặng âm u.
Chẳng những không nghe được tiếng chim hót
mà còn không nghe được tiếng người ta nói với nhau,
bởi đó cũng không học được ngôn ngữ của người khác.
Người điếc cuối cùng trở thành người câm hay ngọng.
Có một người điếc và ngọng như thế trong bài Tin Mừng.
Anh ấy ở vùng Thập Tỉnh, bên kia sông Giođan.
Trước đây Đức Giêsu đã có lần đến vùng này (Mc 5,20),
và đã chữa lành một người bị quỷ ám sống nơi mồ mả.
Người ấy đã đi rao truyền ở vùng Thập Tỉnh về chuyện đó.
Có lẽ vì thế khi Đức Giêsu trở lại vùng này,
Người ta đem đến ngay cho Ngài một anh điếc và ngọng.
Ngài đã không đặt bàn tay trên anh như họ yêu cầu,
cũng không chữa cho anh trước mặt đám đông (Mc 7,33).
Nhưng Ngài làm cho anh những cử chỉ khác thường:
đặt ngón tay vào lỗ tai, lấy nước miếng bôi vào lưỡi.
Anh cảm được những đụng chạm gần gũi thân thương ấy
dù anh không nghe được câu nói “Ép-pha-tha” của Ngài.
Đức Giêsu không chữa bệnh bằng ma thuật và bùa chú.
Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện với Chúa Cha,
như Ngài đã làm trước khi bẻ bánh cho dân chúng (Mc 6,41).
“Ép-pha-tha” có nghĩa là “Hãy được mở ra !”
Anh khuyết tật không tự mở tai hay miệng cho mình được.
Đấng mở ra cho anh là Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã ban điều kỳ diệu ấy cho anh qua Đức Giêsu.
Phép lạ của Đức Giêsu diễn ra ngay lập tức (Mc 7,35).
Hai tai anh được mở ra, lưỡi của anh được tháo cởi.
Lập tức anh nghe được và nói được rành mạch rõ ràng.
Cả một thế giới mới mẻ ngập tràn âm thanh ùa đến.
Anh ngây ngất vì những tiếng reo vui của mọi người.
Anh thấy mình nói, và ai nấy đều hiểu.
Những chiếc cầu đã được bắc khiến người ta ôm lấy nhau.
Thiên Chúa đã mở cửa cho đời anh rồi,
những cánh cửa khép kín từ lâu làm anh cô đơn, buồn tủi.
Anh không còn khuyết tật nữa, nhưng trở nên bình thường.
Anh có thể tìm được một việc làm xứng đáng,
và có thể sống bằng đồng lương của mình.
Anh có thể đến hội đường, nghe được những lời cầu nguyện,
và thưa chuyện với Chúa bằng tiếng nói từ miệng mình.
Đời anh đã sang một trang mới.
Đức Giêsu không thể cấm dân ngoại ca ngợi mình.
Càng cấm thì họ càng loan đi khắp nơi.
Như Thiên Chúa, Ngài đã làm mọi sự tốt đẹp (St 1,25).
Ngài là Đấng Mêsia làm người điếc được nghe
và miệng lưỡi người câm reo hò (Is 35,5-6).
Thế giới hôm nay không thiếu những người khuyết tật.
Nói chung ai cũng khuyết tật về một mặt nào đó.
Thiên Chúa vẫn muốn mở những cánh cửa bị đóng:
mở mắt, mở tai, mở miệng, mở tay, mở trái tim.
Ép-pha-tha ! Hãy để Chúa mở tung cuộc đời ta.
Đôi khi ta không dám cho Ngài mở, vì thấy khép mới an toàn.
Để phòng ngừa dịch bệnh, nhiều hoạt động phải đóng cửa,
nhưng đây lại là lúc tốt nhất để mở tay, mở lòng.
Xin Chúa chạm vào tai và mắt tôi
để tôi mở ra trước nỗi thống khổ mênh mông của thế giới.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa,
Đây là ước mơ của con về thế giới.
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
Không còn những Ladarô đói nằm ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những người thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con cùng bao người thực hiện những ước mơ đó.
5. Suy niệm (song ngữ)
23rd Sunday in Ordinary Time
Reading I: Isaiah 35:4-7 II: James 2:1-5
Chúa Nhật 23 Thường Niên
Bài Đọc I: Isaia 35:4-7 II: Giacôbê 2:1-5
------o0o------
Gospel
Mark 7:31-37
31 Then he returned from the region of Tyre, and went through Sidon to the Sea of Galilee, through the region of the Decap'olis.
32 And they brought to him a man who was deaf and had an impediment in his speech; and they besought him to lay his hand upon him.
33 And taking him aside from the multitude privately, he put his fingers into his ears, and he spat and touched his tongue;
34 and looking up to heaven, he sighed, and said to him, “Eph'phatha,” that is, “Be opened.”
35 And his ears were opened, his tongue was released, and he spoke plainly.
36 And he charged them to tell no one; but the more he charged them, the more zealously they proclaimed it.
37 And they were astonished beyond measure, saying, “He has done all things well; he even makes the deaf hear and the dumb speak.”
Phúc Âm
Máccô 7:31-37
31 Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh.
32 Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
33 Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha”, nghĩa là: hãy mở ra !
35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
36 Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó ới ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.
37 Họ hết sự kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Interesting Details
• Tyre & Sidon were in the gentile area. Mark showed that Jesus was preaching to and healing the gentiles.
• In Isaiah 35:5, “the ears of the deaf be cleared” is a sign that God liberates Israel. This miracle points to that passage and reveals that Jesus is the Messiah.
• Spitting is a common gesture against evil, used by both common folk and healers.
• “Ephphatha” is the original Aramaic word. People believed that the power is in the precise word of the healer, so Mark was careful in preserving the original word.
• One reason why Jesus ordered people not to tell about the miracle is that people did not really understand Jesus, because people have not seen his passion, death, and resurrection.
• Another reason to keep quiet was that His fame would surpass his humble birth and would create trouble for His ministry, as it happened eventually. It also troubled His family. Yet Jesus' nature is the savior so that it is recognized by all and cannot be hidden.
Chi Tiết Hay
• Tyro và Sidon là hai thành phố thuộc vùng dân ngoại. Máccô cho thấy Đức Giêsu giảng dạy và chữa bệnh cho dân ngoại.
• “Tai ngưới điếc sẽ mở ra” (Isaia 35:5) là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa giải thoát Israel. Phép lạ hôm nay ứng nghiệm lời tiên tri đó và tỏ lộ ra Đức Giêsu là Đấng Kitô.
• Nhổ nước miếng là một hành vi chống lại thần dữ, thường được cả dân chúng lẫn những người chữa bênh cho kẻ khác dùng.
• “Ephata” là tiếng Aramaic. Người ta tin rằng sức mạnh là ở chính trong lời nói của người chữa bệnh, vì thế Máccô đã cẩn thận dùng chữ Aramic chính gốc.
• Một lý do chính tại sao Đức Giêsu ra lệnh cho người ta đừng nói gì về phép lạ là vì người ta thực sự không hiểu Ngài, vì người ta chưa được chứng kiến cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài.
• Thời đó, một người con nhà bình dân như Đức Giêsu mà làm những việc nổi tiếng thì sẽ bị làm khó dễ, công việc làm bị cản trở, và gia đình cũng bị chê cười. Đó là một lý do nữa mà Đức Kitô muốn các môn đệ giữ yên lặng. Tuy nhiên bản tính đặc biệt của đấng cứu thế đều được mọi người nhận ra, và đưa Ngài tới cuộc khổ nạn.
One Main Point
Jesus is the Savior who heals and liberates His people.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế đã chữa lành và giải thoát dân Ngài.
Reflections
1. How has Jesus touched me, healed me, and liberated me?
2. Do people see in me a reflection of Jesus' love and freedom, or something else?