Thiên Chúa minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn,
ngày đêm hằng kêu cứu với Người.
Bài đọc 1: Xh 17, 8-13
Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên, thì dân Ít-ra-en thắng thế.
Bài trích sách Xuất hành.
8 Hồi đó, quân A-ma-lếch đến đánh Ít-ra-en tại Rơ-phi-đim. 9 Ông Mô-sê bảo ông Giô-suê: “Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh A-ma-lếch. Còn tôi, tôi sẽ đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa.” 10 Ông Giô-suê làm như ông Mô-sê đã bảo: ông đã giao chiến với A-ma-lếch, còn các ông Mô-sê, A-ha-ron và Khua thì lên đỉnh đồi. 11 Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên, thì dân Ít-ra-en thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì A-ma-lếch thắng thế. 12 Nhưng ông Mô-sê mỏi tay, nên người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn ông A-ha-ron và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên.
Nhờ vậy, tay ông Mô-sê cứ giơ lên được mãi, cho đến khi mặt trời lặn. 13 Ông Giô-suê đã dùng lưỡi gươm đánh bại A-ma-lếch và dân của ông ta.
Đáp ca: Tv 120, 1-2.3-4.5-6.7-8 (Đ. x. c.2)
Đ.Ơn phù hộ chúng ta ở nơi danh Chúa,
là Đấng dựng nên cả đất trời.
1Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,
ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?2Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa
là Đấng dựng nên cả đất trời.
Đ.Ơn phù hộ chúng ta ở nơi danh Chúa,
là Đấng dựng nên cả đất trời.
3Xin Đấng gìn giữ bạn
đừng để bạn lỡ chân trật bước,
xin Người chớ ngủ quên.4Đấng gìn giữ Ít-ra-en,
lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành!
Đ.Ơn phù hộ chúng ta ở nơi danh Chúa,
là Đấng dựng nên cả đất trời.
5Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn,
chính Chúa là Đấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.6Ngày sáu khắc, vầng ô không tác hoạ,
đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi.
Đ.Ơn phù hộ chúng ta ở nơi danh Chúa,
là Đấng dựng nên cả đất trời.
7Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,
giữ gìn cho sinh mệnh an toàn.8Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới,
từ giờ đây cho đến mãi muôn đời.
Đ.Ơn phù hộ chúng ta ở nơi danh Chúa,
là Đấng dựng nên cả đất trời.
Bài đọc 2: 2 Tm 3, 14 - 4, 2
Người của Thiên Chúa nên thập toàn để làm mọi việc lành.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.
3 14 Anh thân mến, anh hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc. Anh biết anh đã học với những ai. 15 Và từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 16 Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục, để trở nên công chính. 17 Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.
4 1 Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: 2 hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.
Tin mừng: Lc 18, 1-8
1 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.
2 Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì.
3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: ‘Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.’
4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc’.”
6 Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó!
7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?
8 Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 29 Thường niên năm C
WHĐ (14/10/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh thánh của lễ Chúa nhật 29 Thường niên năm C theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
Số 2574-2577: Môsê và lời kinh chuyển cầu
Số 2629-2633: Lời nguyện cầu xin
Số 2653-2654: Lời Chúa, nguồn cho kinh nguyện
Số 2816-2821: "Nước Cha trị đến"
Số 875: Tính cấp bách của nhiệm vụ rao giảng
Bài Ðọc I: Xh 17, 8-13
Bài Ðọc II: 2Tm 3,14 - 4,2
Phúc Âm: Lc 18, 1-8
|
Số 2574-2577: Môsê và lời kinh chuyển cầu
Số 2574. Khi lời hứa bắt đầu được thực hiện (Vượt qua, Xuất hành, ban Lề luật và ký Giao ước) thì lời cầu nguyện của ông Môisen là hình ảnh nổi bật của lời kinh chuyển cầu sẽ được hoàn thành nơi “Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, là Chúa Giêsu Kitô” (1 Tm 2,5).
Số 2575. Ở đây cũng vậy, Thiên Chúa đã đến trước. Ngài gọi ông Môisen từ giữa bụi cây đang cháy[1]. Biến cố này trong truyền thống linh đạo Do Thái và Kitô giáo sẽ tồn tại như một trong những hình ảnh hàng đầu về cầu nguyện. Thật vậy, nếu “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacob” kêu gọi tôi tớ Ngài là ông Môisen, đó là vì chính Ngài là Thiên Chúa hằng sống, Đấng muốn cho con người được sống. Ngài tỏ mình ra để cứu họ, nhưng Ngài không hành động đơn phương hoặc không đếm xỉa đến họ. Vì thế, Ngài gọi ông Môisen để sai ông đi, để ông cộng tác vào lòng trắc ẩn và công trình cứu độ của Ngài. Để sai ông đi, hầu như Thiên Chúa phải năn nỉ, và sau một tranh luận lâu dài, ông Môisen mới thuận theo ý muốn của Thiên Chúa Cứu Độ. Nhưng trong cuộc đối thoại này, Thiên Chúa đã tín nhiệm ông Môisen, còn ông Môisen thì học cho biết cầu nguyện: ông thoái thác, ông thắc mắc, và nhất là ông yêu cầu; và chính để đáp lại lời yêu cầu của ông mà Thiên Chúa đã bộc lộ cho ông Thánh Danh khôn tả của Ngài, Danh sẽ được mạc khải qua những kỳ công của Ngài.
Số 2576. “Thiên Chúa đàm đạo với ông Môisen, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11). Cách cầu nguyện của ông Môisen là khuôn mẫu của việc cầu nguyện chiêm niệm, nhờ đó người tôi tớ của Thiên Chúa mới trung thành với sứ mạng của mình. Ông Môisen “nói chuyện” thường xuyên và lâu giờ với Chúa, khi ông lên núi để lắng nghe và cầu khẩn Ngài, khi ông xuống gặp dân để nói lại cho họ những lời của Thiên Chúa và để hướng dẫn họ. “Trong toàn thể nhà của Ta, Môisen là người trung thành nhất! Thật vậy, Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền” (Ds 12,7-8), vì “ông Môisen là người hiền lành nhất đời” (Ds 12,3).
Số 2577. Nhờ sống thân mật với Thiên Chúa thành tín, chậm giận và giàu lòng thương xót[2], ông Môisen đã kín múc được sức mạnh và sự kiên trì để chuyển cầu cho dân. Ông không cầu xin cho bản thân, nhưng cho dân mà Thiên Chúa đã thủ đắc làm dân riêng của Ngài. Ông Môisen đã chuyển cầu trong cuộc chiến với người Amalec[3], và đã chuyển cầu cho cô Myriam được chữa lành[4]. Nhưng nhất là sau khi dân bội giáo, ông đã “đem thân cản lối” trước nhan Thiên Chúa (Tv 106,23) để cứu dân[5]. Các lý lẽ trong lời cầu nguyện của ông Môisen (lời chuyển cầu cũng là một cuộc chiến nhiệm mầu) sẽ gợi hứng cho sự bạo dạn của những người cầu nguyện thời danh trong dân Do Thái cũng như trong Hội Thánh: Thiên Chúa là tình yêu, nên Ngài cũng công bằng và thành tín. Ngài không thể mâu thuẫn với chính mình, nên Ngài phải nhớ lại các kỳ công của Ngài; vì vinh quang của Ngài, Ngài không thể bỏ rơi dân tộc mang Danh của Ngài.
Số 2629-2633: Lời nguyện cầu xin
Số 2629. Từ vựng diễn tả việc khẩn cầu trong Tân Ước có sắc thái phong phú đa dạng: xin, nài xin, nài nỉ, kêu cầu, kêu xin, kêu cứu và thậm chí “chiến đấu trong cầu nguyện”[6]. Nhưng hình thức thông thường nhất, vì là tự phát nhất, là cầu xin. Qua lời kinh cầu xin, chúng ta bộc lộ ý thức về mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa: là những thụ tạo, chúng ta không phải tự mình mà có, không làm chủ được những nghịch cảnh, cũng chẳng phải là cùng đích của đời mình. Hơn nữa, vì là Kitô hữu, chúng ta biết mình là những tội nhân đã quay lưng lại với Cha chúng ta. Cầu xin, một cách nào đó, đã là trở về với Ngài.
Số 2630. Tân Ước hầu như không có những lời cầu nguyện than van thường thấy trong Cựu Ước. Từ nay trở đi, trong Đức Kitô phục sinh, lời cầu nguyện của Hội Thánh mang niềm hy vọng, cho dù hiện nay chúng ta vẫn đang trông chờ và mỗi ngày vẫn còn cần hối cải. Lời kinh cầu xin của Kitô giáo còn xuất phát từ một chiều sâu khác, từ chiều sâu được thánh Phaolô gọi là lời rên siết: tức là lời rên siết của thụ tạo “quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22); cũng là tiếng rên siết của chúng ta “còn trông đợi Thiên Chúa… cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong” (Rm 8,23-24); sau cùng là những “tiếng rên siết khôn tả” của chính Chúa Thánh Thần, Đấng “giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26).
Số 2631. Cầu xin ơn tha thứ là động thái đầu tiên của lời kinh cầu xin, (như lời người thu thuế: “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, Lc 18,13). Đó là bước đi đầu tiên để có thể cầu nguyện đúng đắn và tinh tuyền. Lòng khiêm tốn đầy tin tưởng phó thác đặt chúng ta vào trong ánh sáng của sự hiệp thông với Chúa Cha và Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô, và hiệp thông với nhau[7]: khi đó “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Ngài ban cho” (1 Ga 3,22). Chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ trước khi cử hành Thánh lễ, cũng như trước khi cầu nguyện riêng.
Số 2632. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu[8], trọng tâm lời kinh cầu xin của Kitô giáo là sự khao khát và tìm kiếm Nước Chúa đang đến. Vì thế cần phải có một trật tự trong lời cầu xin: trước tiên là Nước Chúa, rồi đến những gì cần thiết cho chúng ta để đón nhận và cộng tác cho Nước Chúa trị đến. Việc cộng tác như vậy vào sứ vụ của Đức Kitô và của Chúa Thánh Thần, nay là sứ vụ của Hội Thánh, là đối tượng cầu xin của cộng đoàn thời các Tông Đồ[9]. Kinh nguyện của thánh Phaolô, vị Tông Đồ ngoại hạng, mạc khải cho ta thấy sự quan tâm thánh thiện đến tất cả các giáo đoàn, phải gợi hứng cho kinh nguyện Kitô giáo như thế nào[10]. Bằng cầu nguyện, mọi người đã chịu Phép Rửa đều hoạt động cho Nước Chúa trị đến.
Số 2633. Khi tham dự vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa như thế, chúng ta cần hiểu rằng mọi nhu cầu đều có thể trở thành đối tượng của lời kinh cầu xin. Đức Kitô, Đấng đã đón nhận tất cả để cứu chuộc tất cả, được tôn vinh nhờ những lời cầu xin mà chúng ta nhân danh Người dâng lên Chúa Cha[11]. Được bảo đảm nhờ điều đó nên thánh Giacôbê[12] và thánh Phaolô khuyến khích chúng ta cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh[13].
Số 2653-2654: Lời Chúa, nguồn cho kinh nguyện
Số 2653. Hội Thánh “nhiệt liệt và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu … học được ‘sự hiểu biết tuyệt vời về Chúa Giêsu Kitô’ (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh…. Nhưng họ nên nhớ rằng kinh nguyện phải có kèm theo việc đọc Thánh Kinh, để trở thành cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì ‘chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh’”[14].
Số 2654. Các linh phụ đã dùng câu Tin Mừng Mt 7,7 để tóm lược tiến trình tâm hồn được Lời Chúa nuôi dưỡng khi cầu nguyện, như sau: “Anh em cứ tìm nhờ đọc, thì sẽ thấy nhờ suy niệm; cứ gõ cửa nhờ cầu nguyện, thì sẽ mở ra cho anh em nhờ chiêm niệm”[15].
Số 2816-2821: "Nước Cha trị đến"
Số 2816. Trong Tân Ước, cùng một từ Basileia có thể dịch là “vương quyền” (danh từ trừu tượng), “nước” (danh từ cụ thể) hay “vương triều” (danh từ chỉ việc cai trị). Nước Thiên Chúa đang ở trước chúng ta. Nước đó đã gần đến trong Ngôi Lời nhập thể, đã được loan báo trong toàn bộ Tin Mừng, và đã đến trong sự chết và sống lại của Đức Kitô. Nước Thiên Chúa đến từ bữa Tiệc Ly và trong bí tích Thánh Thể, Nước đó đang ở giữa chúng ta. Nước đó sẽ đến trong vinh quang, khi Đức Kitô trao nó lại cho Cha Người:
“Có thể nói, Nước Thiên Chúa là chính Đức Kitô, Đấng chúng ta hằng ngày khát khao Người đến, và chúng ta mong mỏi việc Người ngự đến mau mau được tỏ hiện cho chúng ta. Đàng khác, cũng như Người là sự phục sinh bởi vì chúng ta được sống lại trong Người, thì cũng vậy, Người có thể được hiểu là Nước Thiên Chúa bởi vì chúng ta sẽ được hiển trị trong Người”[16].
Số 2817. Lời cầu xin này là lời “Marana tha”, là tiếng kêu cầu của Thần Khí và Hiền Thê: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”:
“Giả như lời cầu xin này không đòi buộc phải van xin Nước Chúa mau đến đi nữa, thì chúng ta cũng bị thúc giục kêu gào điều đó vì muốn ôm lấy niềm hy vọng của chúng ta. Linh hồn các vị tử đạo nằm dưới bàn thờ lớn tiếng kêu lên Chúa: ‘Lạy Chúa, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng con?’ (Kh 6,10). Chắc chắn các ngài sẽ được xét xử công bằng vào ngày tận thế. Lạy Chúa, nguyện Nước Chúa mau đến”[17].
Số 2818. Trong Kinh Lạy Cha, vấn đề chủ yếu là việc Nước Thiên Chúa đến cách chung cuộc lúc Đức Kitô trở lại[18]. Nhưng ước muốn này không làm cho Hội Thánh xao lãng sứ mạng của mình ở trần gian, trái lại càng thúc giục Hội Thánh dấn thân hơn nữa. Vì từ ngày lễ Ngũ Tuần, cuộc Ngự đến của Nước Thiên Chúa là công trình của Thần Khí Chúa, Đấng kiện toàn công trình của Đức Kitô nơi trần gian và hoàn tất công việc thánh hóa[19].
Số 2819. “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17). Thời cuối cùng, mà chúng ta đang sống, là thời kỳ tuôn đổ Chúa Thánh Thần. Kể từ đó, cuộc chiến đấu quyết định giữa “xác thịt” và Thần Khí đã khởi đầu[20]:
“Chỉ tâm hồn thanh sạch mới có thể tin tưởng nói lên: ‘Nguyện Nước Cha trị đến’. Quả thật, ai nghe lời thánh Phaolô dạy: ‘Vậy tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa’ (Rm 6,12), và biết giữ hành động, tư tưởng và lời nói của mình trong sạch, người đó mới có thể thưa với Thiên Chúa: ‘Nguyện Nước Cha trị đến’”[21].
Số 2820. Trong sự phân định theo Thần Khí, các Kitô hữu phải biết phân biệt giữa sự thăng tiến của Nước Thiên Chúa với sự tiến bộ của văn hóa và xã hội họ đang sống. Sự phân biệt này không phải là tách biệt. Ơn gọi của con người vào sự sống muôn đời không bãi bỏ nhưng củng cố nhiệm vụ của họ là phải sử dụng các năng lực và phương tiện do Đấng Tạo Hóa ban, để phục vụ công lý và hòa bình trên trần gian[22].
Số 2821. Lời cầu xin này được nâng đỡ và đoái nhận trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu[23], vốn hiện diện và hữu hiệu trong bí tích Thánh Thể; lời cầu nguyện này mang lại hoa trái trong đời sống mới theo các mối phúc[24].
Số 875: Tính cấp bách của nhiệm vụ rao giảng
Số 875. “Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15). Không có ai, không có cá nhân nào hay cộng đoàn nào, có thể tự loan báo Tin Mừng cho chính mình. “Có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10,17). Không ai có thể tự ban cho mình lệnh truyền và sứ vụ loan báo Tin Mừng. Người được Chúa sai đi nói và hành động không phải do quyền bính riêng, nhưng do sức mạnh quyền bính của Đức Kitô; người đó nói với cộng đoàn không phải với tư cách là một thành viên của cộng đoàn, nhưng nhân danh Đức Kitô. Không ai có thể tự ban cho mình ân sủng, ân sủng phải được ban tặng. Điều này giả thiết phải có những thừa tác viên của ân sủng, được Đức Kitô ban cho quyền bính và tư cách. Từ nơi Đức Kitô, các Giám mục và linh mục lãnh nhận sứ vụ và khả năng (“quyền thánh chức”) để hành động trong cương vị Đức Kitô là Đầu (in persona Christi Capitis), còn các phó tế lãnh nhận sức mạnh phục vụ dân Thiên Chúa, qua “việc phục vụ” Lời Chúa, phụng vụ và việc bác ái, trong sự hiệp thông với Giám mục và hàng linh mục của ngài. Thừa tác vụ này, trong đó những người được Đức Kitô sai đi nhờ hồng ân Thiên Chúa, thực hiện và ban tặng những gì họ không thể tự thực hiện và ban tặng cho chính mình, được truyền thống Hội Thánh gọi là “bí tích”. Thừa tác vụ của Hội Thánh được trao ban qua một bí tích riêng.
Bài giảng Đức Thánh Cha - Chúa nhật 29 Thường niên năm C
Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 29 Thường niên năm C.
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 29 Thường niên năm C (16/10/2022) - Hãy luôn cầu nguyện bằng những lời nguyện ngắn
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 29 Thường niên năm C (20/10/2019) - Cầu nguyện là điều kiện thiết yếu cho sứ mạng truyền giáo
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 29 Thường niên năm C (16/10/2016), Thánh lễ phong thánh cho 7 chân phước - Nâng đỡ nhau trong lời cầu nguyện
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 29 Thường niên năm C (20/10/2013) - Tại sao cầu nguyện liên lỷ?
|
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Nhờ sự kiên nhẫn, bà góa đã được điều thỉnh cầu. Con người với nhau mà còn biết xử như vậy phương chi là Thiên Chúa - Thiên Chúa đầy yêu thương, Ngài không vì sợ ta quấy rầy như vị quan tòa kia. Nhưng Ngài luôn thích lắng nghe những lời cầu xin của chúng ta. Chúng ta có tin tưởng, kiên nhẫn đến với Ngài không ?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết chạy đến với Chúa trong mọi hoàn cảnh: dù hạnh phúc hay đau khổ. Chúng con luôn có một thái độ tín thác và kiên nhẫn. Xin soi sáng cho chúng con, để chúng con luôn xác tín rằng Chúa luôn lắng nghe và làm những điều tốt nhất cho chúng con. Xin cho chúng con luôn vui vẻ đón nhận tất cả từ Chúa trong bình an và tin tưởng phó thác. Amen.
Ghi nhớ: “Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: Nhờ Môsê cầu nguyện mà quân do thái đã chiến thắng quân của Amaléc.
- Tin Mừng: Gương kiên trì nài xin của một bà góa.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Cầu nguyện và Tin luôn gắn liền với nhau: vì chúng ta Tin nên chúng ta cầu nguyện, và nhờ cầu nguyện nên đức tin của chúng ta được củng cố thêm. Bởi thế Chúa Giêsu dạy các tín hữu Ngài phải cầu nguyện luôn, nghĩa là không chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện gì khó khăn, mà phải cầu nguyện trong mọi lúc.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa dạy chúng ta biết cầu nguyện và giúp chúng ta cầu nguyện luôn, để đức tin của chúng ta ngày càng thêm vững mạnh.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta thường mải mê với công việc mà lười biếng cầu nguyện.
- Tuy chúng ta có cầu nguyện nhưng chúng ta không cầu nguyện cách kiên trì.
- Nhiều khi chúng ta cầu nguyện mà trong lòng không mấy tin tưởng vào Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Xh 17, 8-13)
Chuyện này kể về thời dân do thái đang tiến vào Đất Hứa. Họ phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn trong miền đất đó. Đoạn này thuật cuộc giao chiến với quân Amaléc:
- Môsê giao cho ông Giôsuê dẫn quân đi giao chiến. Phần ông thì ở trên núi giang tay cầu nguyện.
- Khi nào Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Israel thắng thế; ngược lại khi Môsê mỏi mệt quá bỏ tay xuống thì quân Israel thua. Người ta mới lấy một tảng đá kê cho Môsê ngồi, lại cử thêm hai người giúp Môsê nâng tay lên. Nhờ đó Môsê có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ, và kết quả là Israel đã toàn thắng.
Chuyện này muốn nói rằng chiến thắng không phải do sức mạnh của quân Israel, mà nhờ sự phù hộ của Chúa do lời cầu nguyện của Môsê.
2. Đáp ca (Tv 120)
Thánh vịnh này tiếp nối ý tưởng của bài đọc I: “Ơn phù trợ tôi bởi nơi nao ? Ơn phù trợ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”
3. Tin Mừng (Lc 18, 1-8)
Thánh Luca cho biết rõ ý nghĩa của dụ ngôn này là dạy “các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Dụ ngôn có hai vai:
- bà góa: trong xã hội do thái, các bà góa chịu nhiều thiệt thòi và không ai bênh vực. Bà góa này có lẽ bị người ta ức hiếp nhưng vì không ai bênh vực nên chỉ còn biết chạy đến kêu cứu với thẩm phán.
- thẩm phán: lẽ ra nhiệm vụ của ông là bênh vực những người bị ức hiếp. Nhưng ông thẩm phán này không bênh vực bà góa vì bà chẳng có lợi gì cho ông cả. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
* Bài học: một người bất công như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì.
Tuy nhiên, có nhiều kẻ không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng: “Nhưng khi Con Người ngự đến. liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?”.
4. Bài đọc II (2 Tm 3, 14--4, 2) (Chủ đề phụ)
Phaolô biết rằng mình sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho môn đệ mình là Timôtêô để khuyên ông này giữ vững những gì đã học được từ Sách Thánh.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Vai trò của cầu nguyện
Không ai có thể sống đời Kitô hữu tốt mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.
Có 3 người bị kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này ?
- Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.
- Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.
- Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhại. Nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói “Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con”.
Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện.
Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.
Trên đây là 3 thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện:
- Người thứ nhất coi cầu nguyện là mất giờ. Vì anh không có đức tin nên thái độ của anh cũng hợp lý thôi. Nếu bạn không tin Chúa thì cầu nguyện với Ngài sao được ?
- Người thứ hai coi cầu nguyện là một sự thay thế cho làm việc, vì thế sau khi cầu nguyện xong người ấy ngồi chờ Chúa giúp. Phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta cũng nhiều lần cầu nguyện cách này, đặc biệt là khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Chỉ là những lời nói, và những lời đó trở thành một cái cớ để ta khỏi làm việc.
- Người thứ ba tin tưởng vào hiệu quả của cầu nguyện, hiệu quả ấy không thay thế làm việc, mà là trợ lực cho làm việc. Cầu xin điều gì thì đồng thời cũng cố gắng làm bất cứ việc gì có thể để đạt được điều đó. Sự cầu nguyện này khơi lên niềm hy vọng và khuyến khích lòng can đảm. Nó cũng giúp ta cảm nhận rằng Chúa ở kề bên ta và không bỏ mặc ta trong cảnh khó khăn.
* 2. Cầu nguyện luôn
Đoạn Tin Mừng hôm nay bắt đầu như sau: “Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Nhiều người chưa thấy giá trị của sự cầu nguyện liên tục. Họ nghĩ chỉ cần cầu nguyện khi có việc cần Chúa giúp, thế là đủ. Chuyện sau đây là câu trả lời cho những người ấy.
Có một thành phố nhỏ kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn v.v. Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những chiếc đồng hồ ấy chạy không được chính xác lắm.
Một ngày kia có một người thợ sửa đồng hồ đến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật: “Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi”.
Cầu nguyện luôn cũng giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì:
- Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.
- Sự cầu nguyện luôn giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.
- Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.
- Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.
- Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.
* 3. Hai tư thế cầu nguyện
Hồi còn bé, chúng ta được dạy chấp tay lại khi cầu nguyện. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.
Cầu nguyện chấp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm như người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.
Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chấp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy. (FM)
* 4. Cầu thay nguyện giúp
Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 30O đồng nhé”.
Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.
Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. HọÏ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng !”
Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé: Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.
Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18, 1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.
Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.
Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: “Pytago. đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.
Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18, 8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.
Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen. (TP)
5. Mảnh suy tư
a/ Cầu nguyện là dầu giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng.
- Hoa trái của cầu nguyện là đức tin
- Hoa trái của đức tin là tình yêu
- Hoa trái của tình yêu là phục vụ
- Và hoa trái của phục vụ là bình an.
b/ Lời cầu nguyện của ta được Chúa đáp lời, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta xin, mà khi chúng ta được Chúa ban cho ý thức Chúa đang gần gũi mình.
- Lời cầu nguyện của bệnh nhân được đáp lời, không phải khi anh khỏi bệnh, mà khi anh cảm nhận được Chúa vẫn ở cạnh mình, nhờ đó anh ý thức rằng cơn bệnh không phải là hình phạt của Chúa, cũng không phải là dấu Chúa đã bỏ anh.
- Có thể sự cầu nguyện không thay đổi thế giới, nhưng nó giúp ta có thể trực diện với thế giới.
c/ Hồi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy cầu nguyện bằng cách đọc kinh. Bây giờ đã lớn, chúng ta hãy học cầu nguyện bằng cách mở rộng cõi lòng ra cho Chúa.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trải qua bao thế hệ, Đức Kitô đã muốn cho Hội thánh, nhiệm thể của Người, phải không ngừng tiếp tục đời sống cầu nguyện và lễ tế hy sinh mà Người đã khởi sự khi còn sống ở trần gian. Với quyết tâm tuân giữ lệnh truyền của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Ngay từ đầu / các tín hữu đã chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy / luôn sống với nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu ngày nay / biết noi gương các tín hữu ngày xưa mà siêng năng nguyện cầu.
2. Khiêm tốn và kiên trì khi cầu nguyện / là điều mà bài Tin mừng hôm nay muốn nói với tất cả mọi Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết khiêm tốn dâng lên Chúa lời cầu khẩn thiết tha của mình.
3. Hội thánh kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện theo lối các Giờ Kinh Phụng vụ / kể cả những người mà luật không buộc phải cử hành Thần vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết sốt sắng tham dự các Giờ Kinh Phụng vụ / vì đây là một trong những phương tiện giúp chúng ta nên thánh.
4. Lời kinh tuyệt vời Chúa Giêsu đã để lại cho người Kitô hữu là kinh Lạy cha / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vừa đọc vừa suy niệm / và sống tinh thần của lời kinh quan trọng nhất / trong đời sống đức tin của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã truyền cho chúng con: Phải cầu nguyện luôn và không bao giờ được chán nản. Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết triệt để thực thi lệnh truyền của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
KIÊN TRÌ TRONG CẦU NGUYỆN
A. DẪN NHẬP
Người ta thường nói: “Hữu chí cánh thành”: Có chí thì nên. Kinh nghiệm trường đời cho chúng ta thấy muốn thành công, bất cứ ai, bất cứ công việc gì cũng đòi phải có ý chí, lòng kiên nhẫn bền tâm để vượt qua khó khăn. Chúng ta thấy thanh niên thường hay hát một bài rất có ý nghĩa:
Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí cũng làm nên.
Kinh nghiệm này không những đúng cho đời sống vật chất nhưng còn đúng cho cả đời sống tinh thần và tâm linh nữa.
Để nói lên tính cách cần thiết của sự kiên nhẫn trong việc cầu nguyện, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn một bà goá và vị thẩm phán. Vị thẩm phán này là một người bất lương, tham nhũng, chỉ biết có tiền của, không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể ai, mà phải chịu thua bà goá cô thế cô thân. Bà nghèo khó, không có tiền của để đút lót, bà chỉ có một thứ vũ khí duy nhất để chiến đấu, đó là sự kiên trì. Bà cứ quấy rầy vị thẩm phán làm cho ông phải nhức óc, sau cùng ông phải mở phiên tòa để minh oan cho bà.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta về sự cần thiết phải kiên trì trong khi cầu nguyện. Thánh Luca không dám so sánh Thiên Chúa với vị thẩm phán đâu, nhưng ngài chỉ có ý cho chúng ta thấy vị thẩm phán vô lương tâm như thế mà còn chịu thua sự kiên trì quấy rầy của bà goá. Còn Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân từ thương xót lại không nghe lời cầu xin của chúng ta mà minh oan, mà ban cho chúng ta những điều cần thiết sao? Hãy tin tưởng vào lời Chúa hứa: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cửa cho” (Mt 11, 9). Nếu Chúa còn trì hoãn chưa đáp ứng lời cầu xin của ta, đó là dấu Ngài có một kế hoạch đặc biệt có lợi cho ta, hãy tin tưởng và chờ đợi kế hoạch đó được thực hiện.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Xh 17, 8-13
Trên đường tiến về Đất hứa, dân Do thái phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn trong miền đất đó. Không phải là vũ khí tối tân, cũng không phải là các kế hoạch hành quân sắc bén sẽ đưa đến chiến thắng, mà chính là lời cầu nguyện tha thiết của ông Maisen.
Sách thuật lại: khi nào ông Maisen giơ tay lên cầu nguyện thì quân Israel thắng thế, ngược lại khi ông Maisen mỏi mệt hạ tay xuống thì quân Amalếch thắng. Người ta mới lấy một tảng đá để cho ông Maisen ngồi và cử hai người cầm tay ông giơ lên, nhờ đó quân Israel chiến thắng.
Trận đánh không được miêu tả vì tác giả nhằm mục đích khác: Thiên Chúa phù hộ quân Israel nhờ lời cầu nguyện của ông Maisen.
+ Bài đọc 2: 2Tm 3, 14-4, 2
Phaolô biết rằng mình sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho Timôthêô khuyên ông trung thành với truyền thống cũng như Kinh thánh là hai nền tảng đức tin Kitô giáo. Điều ông Timôthêo giảng dạy thì ông đã nhận được nơi thầy mình. Sinh ra trong truyền thống Do thái giáo, được Kinh thánh nuôi dưỡng, Timôthêô phải lấy đó là căn bản để giảng dạy. Ngày phán xét chung, ông sẽ phải tính sổ về sứ mạng rao giảng Tin mừng mà ông đã được trao.
+ Bài Tin mừng: Lc 18, 1-8
Trong bài Tin mừng hôm nay thánh Luca có ý nhắc cho chúng ta một thái độ căn bản trong khi cầu nguyện: phải kiên trì. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn một bà goá bị người ta hà hiếp bất công, bị thiệt thòi mà không có ai bênh vực. Bà phải chạy đến kêu cứu với quan toà xét xử công bình cho. Ông thẩm phán này là một ngưới thiếu trách nhiệm, không bênh vực bà vì bà chẳng có lợi gì cho ông. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
Nếu một người cứng cỏi và vô lương tâm như viên thẩm phán này mà còn xiêu lòng trước lời năn nỉ của bà góa, huống chi Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chắc chắn là Ngài sẽ nghe lời ta cầu xin thôi. Vậy còn đợi gì chúng ta không xin Chúa ban những ơn cần thiết cho hồn xác chúng ta.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Phải kiên trì cầu nguyện
I. DỤ NGÔN BÀ GOÁ VÀ THẨM PHÁN BẤT LƯƠNG
Đức Giêsu đã nhiều lần nói về sự cầu nguyện, dạy các tông đồ cầu nguyện, đặc biệt trong kinh Lạy Cha. Chắc chắn các Tông đồ cũng gặp khó khăn trong việc cầu nguyện, thậm chí các ông có thể “nản chí”, nên hôm nay, Đức Giêsu đã khuyên các ông: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18, 1). Vì thế Ngài đã đưa ra dụ ngôn vị thẩm phán bất luơng và người đàn bà quấy rầy để dạy cho các ông một bài học: Phải cầu nguyện liên tục và kiên trì.
1. Vị thấm phán
Theo William Barclay, vào thời Đức Giêsu sống, có hai loại thẩm phán. Thẩm phán Do thái, xét xử trước các vị trưởng lão. Thẩm phán của Hêrôđê hay đế quốc Rôma: xét xử trước công chúng. Thánh vịnh 82, 2-7 đã nói lên sứ mạng Thiên Chúa ủy thác cho các thẩm phán: “Hãy công minh xét xử kẻ bị áp bức và bà goá…”. Vị thẩm phán trong chuyện này là một trong những thẩm phán ăn lương được bổ nhiệm hoặc bởi Hêrôđê hoặc bởi đế quốc Rôma. Họ là những người tham nhũng, xét xử theo tiền bạc hối lộ. Ông thẩm phán được đề cập trong dụ ngôn thuộc loại này, thuộc loại bất lương vì “không kính sợ Thiên Chúa cũng không kiêng nể người ta” (Lc 18, 5).
2. Bà goá
Theo văn hoá và truyền thống của các quốc gia miền Cận Đông, bà góa là những người bị áp bức, bị xã hội bỏ rơi, không được ai nâng đỡ. Bà không có tiền để hối lộ, làm sao thẩm phán có thể xử cho bà được. Nhưng bà có một thứ võ khí duy nhất để đấu tranh là sự kiên trì và bền bỉ: “Vì bà goá này cứ quấy rầy mãi” (Lc 18, 5).
Dụ ngôn không có ý so sánh Thiên Chúa với thẩm phán bất lương, nhưng sánh ngược lại với con người như thế, Đức Giêsu có ý nói: Thẩm phán bất chính còn như thế, lẽ nào Thiên Chúa không xem xét bênh vực những đứa con yêu ngày đêm kêu xin Ngài? Chắc chắn Ngài sẽ vội vàng cứu giúp họ. Và như vậy, dụ ngôn đưa ra hai nhân vật để nói lên sự tương phản giữa sự bất lương của vị thẩm phán và lòng nhân từ của Thiên Chúa.
3. Vị thẩm phán xét xử cho bà goá
Bà goá này nhận thấy mình cần phải được minh oan, nhưng làm sao xin ông thẩm phán mở phiên toà được, vì ông không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kiêng nể ai, bà lại không có tiền để đút lót. Vì thế bà không thể làm gì hơn là phải quấy rầy vị thẩm phán bằng cách kiên trì nài van, làm cho ông thẩm phán phải nhức óc, cho đến khi ông nhượng bộ để xét xử cho bà.
Ở đây, chúng ta nhận thấy, vị thẩm phán tuy chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng kiêng nể ai, thế mà lại chịu thua sự kiên trì của bà goá. Đứng trước sự kiên trì của bà goá, dù có bất nhân như ông thẩm phán trong dụ ngôn chăng nữa, cũng phải xiêu lòng, chịu thua. Như vậy, điều ấy nhắc cho chúng ta rằng nếu chúng ta kiên trì cầu nguyện thì Thiên Chúa vốn có lòng nhân từ thương xót lại không lắng nghe lòi cầu xin của con cái mình sao?
Đối với Thiên Chúa, thân phận chúng ta được ưu đãi hơn nhiều. Chúng ta không bị cô thế cô thân như bà goá, vì chúng ta có Đấng trung gian là Đức Giêsu Kitô cứu giúp chúng ta trước mặt Chúa Cha. Ngài đã thương yêu hy sinh chịu chết để cứu chuộc chúng ta, tuyển chọn chúng ta làm con Thiên Chúa. Bà goá cần được minh oan thế nào thì chúng ta phải khẩn thiết cầu nguyện để Chúa cứu chữa chúng ta khỏi tay ba thù hơn thế.
II. PHẢI KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
1. Nói về sự cầu nguyện
a) Cầu nguyện cần thiết
Đức Giêsu đã nhiều lần nói về sự cần thiết của việc cầu nguyện, chúng ta đã nghe nhiều, không cần trưng ra đây. Ngay những người đời, những nhà thông thái, bác học cũng cảm thấy sự cầu nguyện là cần thiết. Chúng ta hãy nghe bác sĩ Alexis Carrel, người được giải thưởng Nobel năm 1912, nói về sự hiểu biết của một y sĩ chuyên khoa dày kinh nghiệm:
“Không gì gây nghị lực mạnh mẽ cho bằng cầu nguyện. Đó là một sức mạnh rõ rệt như sức thu hút của trái đất. Là y sĩ, tôi thấy nhiều người dùng thuốc gì cũng vô ích. Họ chỉ bình tĩnh tụng niệm là lành mạnh. Tụng niệm tức là cầu ở Thượng Đế nguồn khí lực vô biên để tăng khí lực hữu hạn của bạn. Nhờ đó, tâm hồn lẫn cơ thể được thanh lọc, và lành mạnh hơn. Chẳng ai nguyện cầu một chốc mà không thấy kết quả”.
Bác sĩ Carl Jung cũng cho biết kinh nghiệm khi ông nói: “Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tưổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng”.
Giải pháp ông nói đây chính là sự cầu nguyện.
Ông Gandhi, người mà dân Ấn độ nâng lên bệ thánh, đã thú nhận rằng: “Nếu không nhờ tụng niệm thì tôi hoá khùng đã từ lâu rồi”.
b) Năng lực của lời cầu nguyện
Lời cầu nguyện có một năng lực to tát. Nó gây ảnh hưởng đến tiến trình các biến cố và thay đổi cả cuộc đời của nhiều người. Bác sĩ Alexis Carrel một lần nữa đã bình luận về năng lực to tát này như sau: “Cầu nguyện là hình thức năng lực hùng mạnh nhất mà con người có thể phát sinh ra. Đối với chúng ta, ảnh hưởng của nó trên toàn tâm trí và thân xác của con người cũng hiển nhiên chẳng khác gì các hạch nội tiết. Nó là một lực có thật không khác gì hấp lực của trái đất”.
Truyện: Toa thuốc chữa bệnh
Một hôm, một bệnh nhân trạc độ 40, đến gõ của phòng mạch bác sĩ.
Người bệnh nói:
- Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên. Sau đó, uống hai viên. Hiện bây giờ tôi uống đến những ba viên, mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.
Bác sĩ là một tín đồ Thiên Chúa giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:
- Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh cho sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.
Đã lâu lắm bệnh nhân kia chẳng hề đọc kinh chiều. Chiều hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ cho một cách nghiêm chỉnh.
Một tuần sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon, và làm việc như thường lệ (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 42-43).
Thể xác mệt mỏi chưa chắc đã làm cho tâm hồn bệnh hoạn. Nhưng tâm hồn mệt mỏi bao giờ cũng làm cho thể xác bệnh hoạn. Bác sĩ Alexis Carrel thật có lý: “Bao nhiêu người đang rên siết trên giường bệnh trong các nhà thương, sẽ được lành mạnh, nếu họ quyết không chiến đấu một mình với đời, mà biết sớm quay đầu nguyện cầu cùng Thượng Đế”.
Ở Vienna, thủ đô nước Áo có một trường Thần-kinh-bệnh-học. Họ chủ trương rằng: nhu cầu về tinh thần của loài người cũng mãnh liệt như nhu cầu vật chất. Theo Frankl, bác sĩ Giám đốc trường khoa học bắt đầu nhận rằng loài người cần có lòng tin Thượng Đế, thì mới sống vui vẻ khỏe mạnh được. Mà nguyện cầu là một phương tiện để ta thấy rằng Thượng Đế là năng lực trong đời sống(x.“Luyện tinh thần”, Nguyễn Hiến Lê dịch, Phần VII, ch 2).
c) Vai trò của sự cầu nguyện.
Không ai có thể sống đời Kitô hữu mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.
Có 3 người kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này?
- Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.
- Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.
- Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức, vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhãi, nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói “Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con”.
Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện. Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.
Ở đây chúng ta thấy có ba thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện:
Đối với người thứ nhất, đó là phung phí thời gian. Vì ông ta không có đức tin nên thái độ của ông ta là hợp lý. Nếu bạn không tin vào Thiên Chúa, bạn có thể cầu nguyện với ai?
Đối với người thứ hai, cầu nguyện thay thế cho hành động. Vì thế, một khi ông đã cầu nguyện xong, ông ngồi lại không làm gì và chờ Thiên Chúa đến cứu giúp ông. Phần nhiều chúng ta cầu nguyện như thế, đặc biệt khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Nói đúng hơn, đó là một sự thoái thác hành động.
Người thứ ba đã tin tưởng cầu nguyện, nhưng không lấy đó để thay thế cho hành động, nhưng như một sự thúc đẩy hành động. Cầu nguyện xong, ông lập tức làm một việc gì mà ông có thể. Sự cầu nguyện của ông có mục đích giúp ông thêm can đảm và hy vọng. Nó cũng cho ông cảm giác Thiên Chúa ở bên cạnh ông và một sự bảo đảm Thiên Chúa không bỏ rơi ông. Ông rút ra sức mạnh cao cả từ sự cầu nguyện ấy (Carôlô, Sợi chỉ đỏ C, tr 773 và Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật và lễ trọng C, tr 658).
d) Tư thế khi cầu nguyện.
Từ khi còn bé chúng ta được dạy rằng khi cầu nguyện phải chắp tay lại. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.
Cầu nguyện chắp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm những người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.
Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chắp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy (McCarthy).
Trong bài đọc 1 của Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy ông Maisen cầu nguyện với đôi tay dang rộng ra trên dân Do thái, trong cuộc chiến đấu một mất một còn với quân Amalếch. Điều đó có ý muốn diễn tả quyền lực của sự cầu nguyện. Chừng nào mà dân Do thái còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa, họ còn tiến lên. Chừng nào họ quên không nhìn đến Thiên Chúa, họ buộc phải rút lui.
Truyện: Cầu nguyện là thể hiện lòng tin
Ông Trilussa, thi sĩ La mã (1871-1950) đã kể lại câu chuyện ông bị lạc đường ban đêm giữa một khu rừng rậm rạp và đã gặp một bà lão mù. Sau khi nghe ông trình bầy hoàn cảnh thì bà lão liền nói với ông: “Nếu ông không biết đường, tôi sẽ đưa ông đi vì tôi thuộc đường lối ở đây”. Vừa ngạc nhiên vừa nghi ngờ ông nói: “Tôi lấy làm lạ, bà không thấy gì cả mà lại có thể dẫn đường chỉ lối cho tôi được sao?” Bà lão không cần giải thích thêm, liền nắm lấy tay ông và ra lệnh “tiến bước”. Kể xong câu chuyện, ông Trilussa kết luận: đó là đức tin.
2. Nói về sự kiên trì
a) Hữu chí cánh thành
Người xưa thường nói: “Hữu chí cánh thành”: có chí thì nên. Kinh nghiệm đời thường cho chúng ta thấy: muốn làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng phải dầy công vất vả: người nông dân muốn có mùa gặt, phải làm đất, gieo hạt, nhổ cỏ, vun xới đất, tưới tắm chăm sóc cây lúa. Có như thế mới có thu hoạch.
Học sinh muốn trở thành bác sĩ, kỹ sư phải vất vả và học hành bao nhiêu năm trời đèn sách. Có như thế mới có thể trở thành người có chuyên môn có khả năng giúp ích cho gia đình và xã hội.
Kiên trì lao động là điều kiện cần thiết cho sự thành đạt của mọi công việc. Nói cách khác, kiên trì lao động chắc chắn sẽ đem lại thành công. Kinh nghiệm ấy được ông cha ta đúc kết thành câu châm ngôn: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Câu châm ngôn này không những chỉ đúng trong lãnh vực tự nhiên mà còn đúng cả trong lãnh vực tâm linh.
Một văn sĩ kể: “Mỗi ngày ba tôi đem một tấm ván dầy ra, bắt tôi dùng lưỡi dao nhỏ rạch lên đó một cái, chỉ một cái thôi. Tôi thật vô cùng ngạc nhiên, nhưng ba tôi không hề hé môi giải thích. Tôi cứ tiếp tục rạch mỗi bữa vào chỗ cũ như vậy, và cuối cùng, sau mấy trăm ngày, tấm ván đứt ra làm hai. Bấy giờ, ba tôi mới vịn vai tôi mà bảo rằng:
- Con thấy không? Với sự bền chí cầm con dao bé nhỏ này cứa mỗi ngày một cái, con có thể làm cho tấm ván dầy đứt ra làm hai. Bao nhiêu việc đời cũng chỉ như thế mà thôi: Người ta nếu biết quyết chí mỗi ngày làm mãi công việc mà mình đeo đuổi thì ắt phải có ngày thành công. Đó là bài học luyện chí mà ba nghĩ là một gia tài lớn lao nhất ba truyền lại cho con vậy” (Nguyễn Văn Y, Có chí thì nên tr 20-21).
Ngoài ra chúng ta còn có những câu tục ngữ diễn tả ý tưởng đó:
- Kiến tha lâu đầy tổ.
- Góp gió thành bão.
- Năng nhặt chặt bị.
- Ngồi lâu câu bền.
b) Kiên trì trong cầu nguyện
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta kiên nhẫn cầu nguyện. Bài trích sách xuất hành hôm nay ghi lại lòng kiên nhẫn cầu nguyện của ông Maisen. Khi ông giang tay cầu nguyện thì dân Chúa thắng thế. Còn khi ông mệt mỏi xuôi tay xuống thì quân Amalếch thắng. Thánh Phaolô trong thư căn dặn Timôthêô phải kiên nhẫn và trung tín cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh kinh. Rồi đến dụ ngôn bà góa trong Tin mừng. Bà goá nài nẵng xin thẩm phán xét xử công lý cho bà. Để bà khỏi quấy rầy, ông thẩm phán, mặc dù là người bất lương, cuối cùng cũng phải xét xử vụ kiện của bà.
Cuộc trở lại của thánh Augustinô là một ví dụ điển hình nói lên lòng kiên nhẫn trong việc cầu nguyện của bà mẹ là Monica, phải mất gần 18 năm trời lời cầu xin của bà mới được chấp nhận. Qua dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay, Chúa hứa đáp ứng lời cầu nguyện của ta, nhưng là theo đường lối của Chúa. Bao giờ Chúa mới ban ơn, ta không biết được, nhưng ta phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa.
Dù Chúa có trì hoãn: Chắc chắn Ngài sẽ can thiệp, nhưng theo cách thức của Ngài. Mỗi khi chúng ta có cảm tưởng Chúa trì hoãn không bao giờ theo ý chúng ta xin, chúng ta hãy nhớ lại lời cầu của Đức Giêsu xin Cha cất chén đắng cho Ngài, nhưng lời xin ấy đã không được Cha chấp nhận cất chén đắng đau khổ đi. Vì chính nhờ Đức Giêsu đã trải qua đau khổ của thập gía để vào vinh quang Phục sinh, mà loài người chúng ta mới được ơn cứu độ. Trong thực tế, có nhiều điều ta tưởng là tốt nên nài xin Chúa ban cho mình, nhưng thực ra nó có hại cho ta mà ta không hay biết, nên Chúa đã không ban. Chúng ta sẽ ra sao nếu mọi ước muốn ngông cuồng hay ấu trĩ của chúng ta đều được Chúa nhận lời hết?
c) Hữu cầu tất ứng
Người ta thường nói: “Có khấn có thiêng, có kiêng có lành”. Lời nói ấy hợp với lời Đức Giêsu đã từng nói: “Các con cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”(Lc 11, 9), đúng là ‘hữu cầu tất ứng”. Nhưng khi nói dụ ngôn này, Đức Giêsu không có ý nói phải cầu xin cho thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa nhận lời, làm như thể Ngài cũng như ông thẩm phán kia, cứ để cho người ta phải xin thật nhiều thật lâu thì mới ban cho.
Qua dụ ngôn này, Ngài muốn ta tin tưởng vào hiệu lực của lời cầu xin, chứ không phải khuyên ta cầu xin cho dài hay phải lặp đi lặp lại cho thật nhiều lần lời cầu xin của mình. Chính Ngài cũng đã khuyên: “Khi cầu nguyện, các con đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin” (Mt 6, 7-8). Như vậy, Chúa bảo chúng ta phải chú ý đến chất lượng hơn là số lượng, nghĩa là phải cầu xin với tất cả lòng tin yêu, phó thác như đứa con đối với cha mình.
Nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng đôi lúc Chúa trì hoãn, và việc trì hoãn đáp ứng lời cầu xin của chúng ta cũng có lý do mà chỉ Ngài biết. Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Ngài. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Ngài ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu cho mọi người.
Truyện: Ông có muốn vào không?
Một người đưa tin phóng ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín. Ông gõ cửa nhưng không ai mở cả. Ông biết trong nhà có người vì trước đó ông đã nhìn qua cửa sổ thấy họ. Bởi đó ông nổi cáu vừa la lớn tiếng vừa dùng hết sức mình đập vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 30 lần thì một cái đầu mới thò ra qua một lỗ nhỏ trên cánh cửa, hỏi:
- Ông có muốn vào không?
- Muốn vào không ư? Tôi đã kêu cửa muốn khàn cả cổ rồi đây này.
- Xin ông thông cảm. Mỗi ngày rất nhiều đứa bé hàng xóm cứ đến gõ cửa để phá chơi rồi lại chạy trốn. Ban đầu chúng tôi tưởng ông cũng thế. Nhưng khi nghe thấy ông vẫn kiên trì kêu cửa, chúng tôi biết ông muốn vào thật nên mới mở cho ông (Bruno Hagspiel).
d) Liệu sau này còn niềm tin như thế?
Chúng ta nghĩ thế nào khi Chúa nói: “Thầy bảo các con: Chúa sẽ kíp giải oan cho họ” trong khi kẻ dữ thắng thế người lành, những bất công không được xét xử? Chúng ta chỉ biết tin vào Chúa, vì Ngài bảo chúng ta đừng lo. Thiên Chúa không làm ngơ mãi đâu. Tuy bề ngoài có vẻ là Chúa chậm trễ, nhưng hãy nhớ: thời giờ là của Chúa. Ngài đòi ta phải kiên nhẫn, phải ăn năn trở lại (2Pr 3.8-15). Loài người chỉ có thời gian, nhưng Thiên Chúa là đời đời. Ngài luôn đến đúng lúc để cứu giúp ta.
Cuối cùng Đức Giêsu hỏi một câu đượm vẻ buồn: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Có còn những kẻ thật lòng tin Đấng Kitô, yêu Ngài và trông đợi sự trở lại của Ngài? Câu này tách rời khỏi dụ ngôn, loan báo sự phản đạo thời cánh chung. Những kẻ được chọn sẽ bị thử thách đến nỗi họ có thể bị mất kiên nhẫn mà trở thành vô tín (x. Mc 13, 20-22).
Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sống buông thả, nhưng phải kiên trì cầu nguyện dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, giống như bà goá kia luôn bền tâm vững chí trước thái độ thờ ơ của vị thẩm phán bất lương. Trong thời gian có vẻ lâu dài giữa việc Đức Kitô ra đi và trở lại, phải cầu nguyện liên lỉ và đừng nhàm chán thì mới có thể đón nhận ơn cứu độ.
Một đại chủng sinh đã viết: “Con lấy làm vinh dự sống trong gia đình nghèo hèn, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến bánh mì và thịt, hoạ may đôi ba lần trong một năm. Tuy hơn 10 đứa con lớn bé đang chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, mẹ vẫn mời họ ngồi ăn chung với chúng con”. Bà mẹ đó chính là mẹ Đức Thánh Giáo hoàng Gioan 23, một vị Giáo hoàng vĩ đại của hoà bình được cả thế giới mến phục, được giải thưởng hoà bình, và là vị Giáo hoàng của Công đồng Vatican II. Nhờ đâu một bà mẹ quê mùa, nghèo khó biết dạy dỗ con nên người vĩ đại như vậy: Thưa, chính là nhờ lời cầu nguyện với niềm tin sắt đá. Liệu bây giờ Chúa còn thấy được lòng kiên trì cầu nguyện nơi chúng ta nữa không?
4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
TÌM THẤY LÒNG TIN
Người tín hữu dễ mất đức tin
khi họ xin những điều rất bình thường tự nhiên
mà không được Chúa nhậm lời.
Họ mất đức tin, vì nếu Thiên Chúa có thật,
hẳn Ngài phải giải thoát họ khỏi cảnh cùng khốn,
và giúp họ thắng được kẻ áp bức bạo tàn.
Nếu Ngài thật sự là Đấng yêu thương và toàn năng,
Ngài không thể để kẻ dữ tha hồ tác oai tác quái.
Chúa Giêsu biết lòng tin con người mong manh,
nên Ngài đã kể dụ ngôn sau đây để minh họa.
Có hai nhân vật trong cùng một thành phố
Một ông quan tòa bất chính và một bà góa.
Quan tòa bất chính vì không có hai điều
quan trọng và cần thiết cho chức vụ của ông.
Đó là kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng con người.
Bà góa vốn là người thấp cổ bé miệng trong xã hội.
Bà không còn người chồng để tựa nương,
nên bà dễ bị chèn ép và đối xử bất công.
Nhưng bà góa trong dụ ngôn này lại rất kiên quyết.
Bà đã làm đơn để kiện người làm hại mình.
Nhiều lần, bà đi gặp thẳng quan tòa,
đòi ông phải giải quyết vụ việc.
Quan tòa có vẻ không để tâm đến chuyện này.
Ông cứ lần lữa một thời gian khá lâu.
Nhưng cuối cùng, ông quyết định sẽ xử lý ổn thỏa,
đơn giản vì ông không muốn bị bà quấy rầy nữa,
và cũng không muốn chịu những hậu quả tồi tệ.
Như thế dụ ngôn trên đã có một cái kết tốt đẹp,
nhưng ta vẫn phải tiếp tục suy nghĩ về ý nghĩa của nó.
Đức Giêsu có lúc đã ví chuyện Ngài đến như kẻ trộm,
nghĩa là đến bất ngờ, không báo trước.
Bây giờ Ngài lại dùng hình ảnh ông quan tòa bất chính
để nói về Thiên Chúa là Đấng công chính.
Có nét giống nhau giữa Thiên Chúa và ông quan tòa.
Cả hai đều lo việc xét xử,
đều phải lắng nghe người ta đến kêu oan.
Công việc của cả hai là đem lại sự công bằng,
người có tội bị trừng phạt, người bị hại được đền bù.
Thiên Chúa và ông quan tòa còn có điểm chung khác:
cả hai đều bắt người ta phải chờ lâu.
Ông quan tòa từ chối việc minh xét cho bà góa.
Thiên Chúa cũng trì hoãn trì hoãn việc minh xét
cho những kẻ được Người tuyển chọn.
Cuối cùng, ông quan tòa quyết định giúp bà góa.
Còn Thiên Chúa có minh xét cho con người không?
Nhìn vào thế giới hôm nay, có bao tiếng kêu xin
tương tự như tiếng nài nỉ của bà góa.
Bao phụ nữ hôm nay phải chịu những bất công.
Có những người bị lạm dụng mà không dám mở miệng.
Ở một số nước, phụ nữ không được đi học, đi làm.
Nhiều người vợ bị bạo hành trong gia đình,
và sống như cái bóng trong chế độ gia trưởng.
Họ đã kêu lên Chúa trong thời gian lâu dài,
kêu cả ngày lẫn đêm, nhưng chẳng thấy Ngài đáp lại.
“Nhưng khi Con Người đến,
liệu Người có tìm thấy lòng tin trên mặt đất chăng?
Đó là câu kết của bài Phúc Âm hôm nay,
một câu kết có phần bi quan từ chính Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu như tự hỏi xem vào ngày Ngài trở lại,
có còn ai tin vào Ngài không, hay nản lòng tuyệt vọng.
Như bà góa, chúng ta kiên trì tin tưởng cầu xin Chúa
cứu chúng ta cho khỏi sự dữ và thần dữ.
Nhưng chúng ta không được bịt tai
trước tiếng kêu cứu của con người hôm nay.
Chúng ta biết mình phải chịu trách nhiệm
trước mọi bất công, chiến tranh, đói nghèo trên mặt đất.
LỜI NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
chẳng có chuyện gì xảy ra mà Cha không cho phép.
Nhưng lắm khi chúng con không hiểu được
tại sao Cha cho phép chuyện tồi tệ đó xảy ra.
Dù sao chúng con tin rằng,
đối với những ai yêu mến Cha,
mọi sự đều đem lại điều tốt cho họ.
Lạy Cha đầy lòng thương xót,
chúng con tin rằng những gì Cha cho phép xảy ra
đều vì yêu thương chúng con,
và vì ích lợi cho cuộc sống vĩnh hằng của chúng con.
Cha đau đớn khi đôi khi phải dùng roi mà sửa dạy
như cha mẹ rầy la để mong con nên người.
Xin cho chúng con nhận ra điều Cha muốn nhắc nhở,
và điều chỉnh lại đời mình cho hợp với ý Cha. Amen.