Ai liều mất mạng sống mình vì tôi,
thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Bài đọc 1: 2 Mcb 7, 1.20-23.27b-29
Bà mẹ là người đáng khâm phục, vì bà can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.
Bài trích sách Ma-ca-bê quyển thứ hai.
1 Hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm.
20 Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. 21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con: 22 “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. 23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.”
27b Bà nói với người con út: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. 28 Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. 29 Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”
Đáp ca: Tv 125, 1-2ab.2cd-3.4-5.6 (Đ. c.5)
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
1Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về,
ta tưởng mình như giữa giấc mơ.2abVang vang ngoài miệng câu cười nói,
rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
2cdBấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán:
“Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!”3Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại!
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
4Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về,
như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.5Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6Họ ra đi, đi mà nức nở,
mang hạt giống vãi gieo;
lúc trở về, về reo hớn hở,
vai nặng gánh lúa vàng.
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Bài đọc 2: Rm 8, 31b-39
Dù sự chết hay sự sống cũng không tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
31b Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? 32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? 33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? 34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
35 Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? 36 Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.
37 Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Tin mừng: Lc 9, 23-26
23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.
24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?
26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.”
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong cuộc đời các Kitô hữu. Đặc biệt trong những lúc gặp thử thách, người tín hữu luôn có Thánh Thần hỗ trợ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, lời tiên báo về những cuộc bắt bớ vẫn còn ứng nghiệm qua các thời đại. Sống ở bất cứ thời đại nào, người tín hữu luôn liên lụy với Thập giá của Chúa, cùng chung số phận với Chúa là Đấng treo trên thập giá. Ngày nay con cũng đang được Chúa mời gọi sống cuộc đời tử đạo.
Lạy Chúa, muốn sống “tử đạo”, con cần can đảm chọn lựa: chọn lựa giữa một mất một còn, giữa trung thành và phản bội, giữa sự sống và sự chết, giữa Thiên Chúa và người đời. Con cần chọn lựa dứt khoát để làm chứng cho Chúa. Con cần làm chứng cho niềm tin và lòng mến bằng những sự hy sinh từ bỏ mình, bằng những khổ đau phải chịu, bằng đời sống gian nan vất vả… Con tin chắc con sẽ thực hiện được điều ấy, vì Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời con. Chúa sẽ soi sáng cho con phải nói điều gì. Chúa sẽ hướng dẫn con cần làm việc chi.
Lạy Chúa, tên tuổi 117 thánh Tử Đạo Việt Nam đã được ghi vào lịch sử Giáo Hội. Nhưng còn một số đông vô kể, cả chính con, là những tín hữu không tên tuổi đang dấn thân trong cuộc sống chọn lựa. Xin Chúa ban thêm cho con sức mạnh và lòng can đảm cương quyết, để con dám sống bằng những cử chỉ anh hùng, dám tỏ thái độ dứt khoát khi chọn lựa đứng về phía Chúa. Vì khi con sống điều Chúa dạy, khi con dám thực hiện lề luật Chúa, tức là con đang tử đạo hằng ngày, và đang trở thành chứng nhân cho Chúa giữa thế giới hôm nay. Xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng: có thể họ sẽ gặp nguy hiểm như chiên vào giữa bầy sói và bị bách hại.
Do đó: Một mặt phải vừa đơn sơ phải vừa khôn ngoan. Mặt khác phải đừng sợ, vì Chúa sẽ giúp đỡ họ.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. “Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa bầy sói”: Thế gian thì hung ác và mạnh mẽ như bầy sói còn tông đồ của Chúa thì hiền lành và yếu ớt như chiên. Thế nhưng nước Thiên Chúa lại được mở mang bằng chính sự yếu ớt của Chúa Giêsu và các tông đồ của Ngài. Thánh Phaolô nói: “Sức mạnh Thiên Chúa được hoàn thành trong sự yếu ớt” (2Cr 12, 2).
2. “Khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu”: Con rắn không vô cớ trườn mình ra chỗ nguy hiểm, trái lại, nó khéo ẩn mình, và khi gặp nguy hiểm nó cũng khéo luồn lách; bồ câu thì không mưu mô, không màu mè giả dối…
3. “Chính Thánh thần nói trong các con”: Người tông đồ không cậy dựa vào lời nói và trí thông minh của mình nhưng vào ơn sai sáng của Chúa. Muốn thế họ phải luôn kết hợp với Chúa Thánh Thần.
4. Một học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong ngôi trưòng có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu Thánh Giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “Hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy gọi em lên đứng giữa lớp và hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng, em chỉ cám ơn Chúa đã ban cho lương thực hàng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì”.
5. “Vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền trí đến cùng kẻ ấy sẽ được cứu thoát (Mt 10, 22).
Ai cũng khen tôi đi giầy cao gót đẹp, và tôi cũng cảm thấy thế. Nhưng điều ấy không làm cái đau buốt đang cấu xé đôi chân giảm đi chút nào.
Hình như cái gì cũng có cái giá của nó.
Chúa Giêsu cũng ra giá cho những người muốn theo Ngài. Xem ra Ngài ra giá chẳng phải là nhà quảng cáo khéo léo khi đưa ra những cái khó khăn và mặt trái của vấn đề. Nhưng tôi lại thích lối trình bày ấy. Tôi thán phục tính chân thực và sự thẳng thắn trong Lời của Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã nói rất chân tình với con về lối mà Ngài mời con dẫn bước. Xin cho con biết trung thành với con đường đã chọn, bất chấp mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống. (Hosanna)
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
CHỜ ĐỢI NGÀY CHÚA ĐẾN
A. DẪN NHẬP
Hôm nay là tuần lễ áp chót của năm Phụng vụ nên tư tưởng các bài đọc Thánh lễ hôm nay hướng về thời thế mạt và việc Đức Kitô đến lần thứ hai. Qua bài đọc 1, tiên tri Malachia cho biết đối với những kẻ ác thì “Ngày của Chúa” sẽ là ngày phán xét, nhưng đối với người chính trực, đó là ngày cứu chuộc. Còn qua bài đọc 2, thánh Phaolô cho biết có một số tín hữu Thessalonica tin rằng ngày quang lâm của Chúa đã gần kề, nên không chịu làm việc gì cả. Ngài khuyên họ hãy tiếp tục sống và làm việc bình thường, làm ra của mà ăn chứ đừng ăn bám vào người khác. Chính ngài đã làm gương cho họ về điều này.
Trọng tâm của bài đọc hôm nay là Đức Giêsu loan báo việc đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá và liên kết với việc tàn phá đền thờ, Đức Giêsu nói về ngày tận thế. Trong khi chờ đợi “Ngày của Chúa” tức là ngày Chúa đến lần thứ hai, các tín hữu sẽ phải trải qua nhiều gian nan thử thách, phải qua một thời đại bị bách hại. Nhưng đừng sợ, hãy kiên trì vì sự bách hại sẽ là một cơ hội để làm chứng cho Tin Mừng. Chính Chúa sẽ làm cho các tín hữu chiến thắng trong thời kỳ sau cùng với điều kiện họ phải luôn bền đỗ.
Trong khi chờ đợi Ngày của Chúa chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta phải đặt hết niềm tin tưởng phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa rồi sống an nhiên tự tại. Hãy cố gắng làm trọn nhiệm vụ của mình hằng ngày, làm một cách chu đáo. Đồng thời phải dọn mình chết lành, vì mọi sự sẽ phải qua đi, kể cả mạng sống mình, để khỏi phải bồn chồn lo lắng về ngày tận cùng của thế giới và nhất là của đời mình. Ước gì ngày quang lâm của Chúa sẽ là niềm hy vọng và niềm vui cho chúng ta khi chúng ta đang nóng lòng chờ đợi Chúa đến.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Ml 3, 19-20a
Khi trở về Giêrusalem, những người lưu đầy gặp một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, và họ ngạc nhiên vì không thấy Thiên Chúa thưởng công cho lòng trung tín của họ. Tiên tri Malachia nói với họ về “Ngày của Chúa”: đối với kẻ xấu, ngày của Chúa sẽ là ngày phán xét, nhưng đối với người chính trực, đó là ngày cứu chuộc. Giống như mặt trời, ngày của Chúa sẽ là ánh sáng cho người công chính, nhưng là lửa thiêu hủy những ai quay lưng lại với Người.
+ Bài đọc 2: 2Tx 3, 7-12
Nhiều tín hữu trong giáo đoàn Thessalonica nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế rồi, nên họ lười biếng không muốn làm gì cả.
Thánh Phaolô khiển trách họ về lối sống đó, và ngài khuyên họ phải tích cực làm việc, không được ăn bám vào người khác. Chính ngài đã làm gương cho họ về việc lao động để làm ra lương thực nuôi sống mình.
+ Bài Tin mừng: Mt 25, 14-30
Chúng ta nghe lời tiên báo về sự tàn phá Đền thờ Giêrusalem và cho biết hoàn cảnh của Giáo hội trong một thời đại thử thách. Tuy Đức Giêsu đưa ra lời tiên tri về Đền thờ bị phá huỷ (đã xẩy ra vào năm 70) nhưng chủ yếu giáo huấn của Ngài là nói về ngày sau hết của thế giới và của con người. Đồng thời Ngài cũng trấn an và hứa phù trợ những ai đặt trọn niềm trông cậy nơi Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Chờ đợi ngày Chúa đến
I. NHỮNG LỜI TIÊN BÁO
1. Đền thờ Giêrusalem tráng lệ
Ngày nay đền thờ Giêrusalem không còn vết tích nào, như lời Đức Giêsu đã tiên báo, tuy nhiên, tìm về nguồn gốc chúng ta được biết Đền thờ thứ nhất được vua Salomon xây dựng rất nguy nga đồ sộ (1V 6, 11t), nhưng rồi bị vua Nabuchodonosor chiếm và phá huỷ vào năm 587. Sau thời lưu đầy, Esdras và Nêhêmia xây đền thờ thứ hai và khánh thành năm 515, nhỏ và kém nguy nga so với đền thờ thứ nhất. Sau đó, đền thờ Giêrusalem còn được tái thiết nhiều lần.
Lời Đức Giêsu nói về đền thờ Giêrusalem do vua Hêrôđê Cả cho xây cất lại, tân kỳ và khá đồ sộ nguy nga. Hoàn tất trước Chúa giáng sinh 19 năm, nên đến thời Đức Kitô còn rất mới.
Vẻ đẹp nguy nga của Đền thờ còn được sử gia Joseph Flavius (37-95) diễn tả trong cuốn “The Wars of Jews”, cuốn 5, phần 5 như sau: “Từ phía trước, vẻ mặt bên ngoài của đền thờ đã làm kinh ngạc con mắt và trí óc của con người, vì nó được bao phủ toàn bộ bằng những miếng vàng rất nặng, vào lúc mặt trời mọc, nó phản chiếu lại sự huy hoàng cực kỳ chói lọi, làm cho những ai cố gắng bắt buộc mình nhìn thẳng vào nó đều phải quay đi nơi khác, giống như thể họ vừa nhìn vào ngay ánh mặt trời. Nhưng từ ở đàng xa, đền thờ xuất hiện đối với những người lạ, giống như một ngọn núi được bao phủ bằng tuyết, vì đối với những phần không được mạ vàng, chúng lại cực kỳ trắng xoá”.
2. Đền thờ sẽ bị phá hủy
Lúc đó, tại khuôn viên đền thờ Giêrusalem, có một số người nhìn ngắm và trầm trồ khen ngợi lối kiến trúc và vật liệu xây cất đền thờ, và người ta có cảm tưởng rằng đền thờ này thật kiên cố và sẽ không bao giờ bị phá huỷ.
Nhưng ngược lại, đứng trước sự tráng lệ huy hoàng của đền thờ, Đức Giêsu quá xúc động vì Ngài đã nhìn thấy trước sự tàn phá của nó, nên Ngài nói: “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá” (Lc 21, 6).
Thật thế, bốn mươi năm sau khi Đức Giêsu chịu chết vào năm 70 sau dương lịch, vì sự nổi loạn của người Do thái, quân đội Rôma đã bao vây thành Giêrusalem và đền thờ bị phá huỷ. Theo nhà chú giải Thánh kinh William Barclay, sử gia Joseph Flavius đã cho biết một con số tổn thất không thể tưởng tượng nổi: một triệu một trăm ngàn người bị chết trong vòng vây, và chín mươi bảy ngàn người bị bắt mang đi đầy.
3. Ý nghĩa lời tiên báo của Chúa
Nghe Đức Giêsu loan báo như vậy, mọi người kinh hoàng. Họ muốn Chúa cho biết thời gian và dấu chỉ báo trước về ngày tàn phá đền thờ.
Đức Giêsu không trả lời về thời gian và dấu chỉ báo trước đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ, nhưng Ngài dựa vào lời tiên báo trên đây để nói về ngày tận thế, ngày mà Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Ngài cho biết ngày tận thế chắc chắn sẽ xẩy ra như đền thờ Giêrusalem bị phá hủy vậy.
Như vậy, ngày tận thế có thể được hiểu là ngày sau hết của đời sống mỗi người ở trên trần thế hoặc là ngày tận cùng của thế giới. Nếu hiểu ngày tận thế là ngày cuối cùng của cuộc sống mỗi người ở trần thế, thì ngày tận thế chính là cái chết của mỗi người, ngày Chúa gọi mỗi người ra khỏi thế gian đến trước toà thẩm phán.
Khi nào ngày cuối hết của mỗi người hay khi nào ngày cuối hết của thế giới xẩy ra, và xẩy ra thế nào, đối với chúng ta không hẳn là quan trọng. Cái điều quan trọng là ta sửa soạn cho đến ngày đó. Điều ám chỉ trong Tin mừng hôm nay là ta phải trả lẽ trước mặt Chúa, và nếu ta khôn ngoan, ta sẽ liệu làm hoà với Chúa khi còn đủ thời giờ trước khi Chúa đến.
II. CHUẨN BỊ CHO “NGÀY CỦA CHÚA”
“Ngày của Chúa” theo cái nhìn của các tiên tri chính là ngày mà Thiên Chúa ra tay hùng mạnh để giải thoát họ khỏi ách thống trị của ngoại bang. Dần dà qua dòng lịch sử cái nhìn về “Ngày của Chúa” đã được biến đổi. “Ngày của Chúa” chính là ngày chung cuộc của tất cả thế giới. Vì thế, Ngày của Chúa là ngày xét xử kẻ dữ và ngày ban thưởng cho kẻ lành.
1. Phải chịu đau khổ
Đức Giêsu cho biết ngày tận thế chắc chắn sẽ xẩy ra, nhưng trước ngày đó, mọi người sẽ phải đương đầu với bao đau khổ, bao gian nan thử thách.
Người tín hữu cùng với mọi người là anh em và cũng như họ sẽ phải đối mặt với những thăng trầm và biến động của lịch sử: chiến tranh, nổi loạn, động đất, dịch hạch, đói kém… Và vì họ là môn đệ của Đấng mà chính bản thân cũng bị ngược đãi vì lẽ công chính, thì đến lượt họ cũng phải chịu bắt bớ và ngược đãi thôi: “Người ta sẽ tra tay bắt bớ và ngược đãi các con, nộp cho các hội đường và nhà tù và điệu đến trước mặt vua chúa, quan quyền vì danh Thầy” (Lc 21, 12).
2. Nhưng phải bền đỗ: đừng sợ
Số phận của các người theo Chúa là phải trải qua những gian nan thử thách, phải bị ngược đãi, nhưng Đức Giêsu đã khuyên nhủ: “Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con” (Lc 21, 19).
Bền đỗ hay kiên trì là gì? Thưa là dù gặp phải gian truân thử thách, ta không lùi bước, không thối chí nản lòng, không bỏ cuộc, nhưng vẫn luôn giữ vững niềm tin và lý tưởng sống của mình.
Câu này có ý nghĩa tổng quát, và có giá trị trong mọi thời, chứ không có ý chỉ về ngày tận thế. Điều này muốn nói: trong bất cứ mọi cơn thử thách nào, một khi người Kitô hữu biết bền đỗ đến cùng sẽ được bảo đảm về phần rỗi của mình, sự bền đỗ này là sự kiên tâm bền chí giúp người Kitô hữu can đảm tin tưởng đương đầu với mọi thử thách của cuộc sống thường nhật, cũng như các hoàn cảnh đặc biệt của thời bách hại. Sự bền đỗ này chắc chắn giúp ta được sống và được vào Nước trời (x. Cv 14, 22).
Truyện: Phải kiên trì
Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh vào cửa hai ba chục lần.
Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách có muốn vào không.
Vị khách nói như mê sảng: “Này ông, tôi vào được không? Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi?”
Người trong nhà trả lời: “Ồ, ông biết đấy: có nhiều trẻ ở chung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa”.
3. Đề phòng tiên tri giả
Đức Giêsu còn cho biết trong thời gian chờ đợi ngày chung cuộc của thế giới sẽ có nhiều tiên tri giả, mạo danh Chúa để mê hoặc tín hữu, hay loan báo thời gian đã đến gần để làm mất niềm hy vọng nơi những kẻ tin.
Thời trước Đức Giêsu đã xuất hiện nhiều tiên tri giả. Đây là trường hợp cụ thể: tiên tri Giêrêmia nói thật với vua Sedecias chớ liên minh với Ai cập: Nhưng các tiên tri giả vô đạo, ngoại tình, dối trá, chúng củng cố lũ ác ôn của nhà vua bằng những lời lừa gạt rằng: “Thành Giêrusalem sẽ được bình anh vô sự, không có tai họa nào cả”. Chẳng bao lâu, quân của vua Nabuchodonosor kéo đến phá tan tành vì liên minh với Ai cập chống lại Babylon. Và tất cả dân chúng bị bắt đi đầy sang Babylon.
Người ta thường nói: “Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán bang”: một lời nói làm cho đất nước hưng thịnh, một lời nói có sức tàn phá đất nước.
Trước sức tàn phá của lời nói lừa gạt, Đức Giêsu dạy các môn đệ và chúng ta phải hết sức đề phòng những tiên tri giả, những lời dụ dỗ đường mật, những lời mị dân, những lời nịnh bợ, lôi cuốn chúng ta vào mê hồn trận, khiến chúng ta kiêu ngạo, lầm lạc nâng mình lên, sẽ bị ngã nhào:“Các con hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: Chính Ta đây và thời gian đã gần đến” (Lc 21, 8).
Ngày nay, trong lãnh vực tôn giáo, người ta không còn ngây thơ nghĩ rằng: niềm tin tôn giáo luôn luôn là một động lực thúc đẩy con người sống cho tình yêu và hoà bình nữa. Chúng ta thấy ngày nay đã có nhiều giáo phải đi ngược lại những điều răn của Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy tôn giáo phát sinh ra những con người quá khích, những tên khủng bố. Họ đã nhân danh Thiên Chúa để giết người, càng giết nhiều người càng làm vui lòng Ngài! Ngay cả Kitô giáo cũng có những người quá khích như thế. Những tiên tri giả đã xuất hiện rất nhiều.
Truyện: Tự sát tập thể
Ngày 26/3/1997 báo Chicago Tribune số ra ngày 28/3/1997 đưa ra một bản tóm lược các vụ tự sát tập thể do các giáo phải ra giảng về ngày tận thế, và những người xưng minh là Đấng Thiên Sai - Messiah gây ra. Chúng ta đưa ra mấy trường hợp.
Ngày 18/1/1978, tại Jonestowm, Guyana, do sự thúc đẩy của Jim Jones, tự xưng là Đấng Thiên Sai, 913 người đã tự sát hay bị cưỡng ép uống độc dược chết trong rừng. Đây là một giáo phái Kitô hữu có tên People’s Temple, rao giảng về ngày tận thế. Sau đó là hàng loạt các vụ tự sát tập thể của các giáo phái cực đoan khác nhau xuất hiện.
Ngày 5/10/1994, chính quyền Thụy sĩ đã tìm thấy xác chết của 48 người có liên hệ với Order of the Solar Temple – Tu hội đền thờ mặt trời – trong một ngôi nhà ở nông trại và trong 3 ngôi nhà gỗ, tất cả đều bị đốt cháy. Ngày 23/12/1995, 16 thành viên khác của Order of the Solar bị đốt cháy trong một ngôi nhà ở Grenoble, trong vùng núi Alpes. Tất cả các xác chết được xếp theo hình ngôi sao nằm dưới nền nhà. Ngày 22/3/1997, thêm 5 thành viên nữa của Order tự vẫn chết ở St. Casimir, Québec, Canada. Các tín đồ của giáo phái này tin rằng việc tự tử sẽ đưa họ đến một thế giới mới trên một hành tinh khác gọi là Sirius.
4. Hãy củng cố đức tin
Trước những bách hại, trước những gian nan thử thách, thậm chí cả chia rẽ trong gia đình, Đức Giêsu khuyên họ: “Đừng sợ”. Hãy tin tưởng trong phó thác và bền đỗ trong đức tin, vì Thiên Chúa luôn quan phòng che chở cho những ai trông cậy nơi Ngài.
Đối với Đức Giêsu, bách hại và thử thách không phải là điều đáng sợ mà là một cơ may, để người tín hữu có dịp “làm chứng”, để cho kẻ bách hại hiểu biết đức tin của người tín hữu chứng tỏ lòng tin vào Thiên Chúa trong cơn thử thách.
Quả thật, Thiên Chúa muốn niềm tin phải là một hành động tín nhiệm sâu xa nơi Ngài, một biểu lộ tín thác tuyệt đối vào Ngài, cho dù phải thử thách lớn lao nhất, kể cả sự chết. Đức Hồng Y Fulton Sheen có viết: “Để trắc nghiệm đức tin của ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc thuận buồm xuôi gió”.
Hugues Cousin có thể kết luận: “Người ta đã hiểu được rằng Luca viết chương 21 này không nhằm mục đích mô tả trước cho độc giả biết diễn biến của lịch sử, cho bằng muốn thổi cho họ một luồng sinh khí, để họ sống hiên ngang giữa những gian truân, thử thách, nhắc nhở cho họ biết rằng thời gian hiện tại có một giá trị tích cực. Chính ở đây và lúc này mà Thiên Chúa đang vẫy tay mời gọi ta… Một niềm hy vọng như thế không làm giảm thiểu tầm quan trọng của những trách vụ trần thế, nhưng đúng hơn còn giúp chu toàn những trách vụ ấy nhờ vào những động cơ mới” (Fiches dominicales C, tr 360).
III. CÔNG VIỆC CỦA CHÚNG TA
Những biến cố Đức Giêsu đã cảnh giác trong bài Tin mừng hôm nay đang dồn dập xẩy ra. Những biến cố ấy đã giúp chúng ta chuẩn bị cho ngày sau hết của đời mình cũng như của thế giới chưa? Chúng ta đã chuẩn bị trong tin tưởng và bình an chưa? Chúng ta có thể làm hai việc sau đây.
1. Chu toàn bổn phận hằng ngày
Trong bài đọc 2 hôm nay, chúng ta được biết khi ấy tại giáo đoàn Thessalonica có nhiều tín hữu tưởng rằng sắp đến ngày thế mạt, ngày Đức Giêsu Kitô trở lại. Họ còn bị nhiều người tự xưng là tiên tri đến, để tuyên bố nhiều điều làm xáo trộn đời sống thường nhật của các tín hữu, khiến cho đời sống cộng đoàn bị xáo trộn, nhiều người bỏ bê việc bổn phận của mình với lý do “bận lo việc phần hồn”.
Trước tình hình đó, thánh Phaolô đã phải lên tiếng cảnh cáo họ: “Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn”. Thánh nhân nói thẳng với họ rằng: “Chúng tôi nghe tin có một số người trong anh em sống nhàn cư, chẳng làm việc gì hết, nhưng lại dây vào mọi việc. Đối với những hạng người ấy, chúng tôi mời gọi và khuyến cáo họ trong Chúa Giêsu Kitô, để họ yên tâm làm việc và dùng lương thực mình tìm ra”.
Chúng ta hãy kiên trì thực hiện các việc bổn phận hằng ngày từ việc nhỏ đến việc lớn cách chu đáo. Chúng ta phải sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thử thách, trở ngại theo những đòi hỏi của Tin mừng. Thậm chí, có khi vì sống theo Tin mừng, chúng ta có bị bách hại, bị cô lập, bị khinh dể đi chăng nữa, thì ngay cả những lúc đó, Đức Giêsu vẫn mời gọi chúng ta: “Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con”. Chúng ta cứ bền đỗ và tin tưởng, vì Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương không bao giờ bỏ mặc chúng ta là con cái của Ngài. Nếu chúng ta dám đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, Ngài sẽ chăm sóc cho chúng ta.
2. Dọn mình chết lành
Chúng ta đang ở vào những ngày cuối năm Phụng vụ để chuẩn bị năm phụng vụ mới sẽ diễn ra vào ngày Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng sắp tới. Nói tới giờ kết thúc cuộc đời, có lẽ là điều thích hợp trong lúc này, bởi vì mọi sự sẽ qua đi như lời Đức Kitô đã nói và cuộc đời của con người cũng sẽ có ngày kết thúc.
Nói đến ngày tận thế, xem ra là vấn đề mơ hồ và xa xôi, đưa đến bi quan, nhưng lại là điều có thật. Tuy nhiên, khi nói tới ngày kết thúc cuộc đời mình thì đó là điều chắc chắn và thiết thân. Mỗi người phải lo cho số phận mình, không ai có thể thay thế được.
Nhưng có nhiều người cứ sống như không bao giờ chết, họ sống không mục đích, họ sống cho qua ngày như trên mộ bia của anh chàng Bopp có viết câu: “Đây là nơi yên nghỉ của một người không biết tại sao mình sống”.
Sống mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sau này sẽ ra sao, cho nên người ta chỉ biết sống để hưởng thụ, càng nhiều càng tốt, không cần biết tương lai sẽ ra sao.
Truyện: Sắm sẵn hành trang chưa?
Một quan lớn kia có nuôi một tên hề để hầu hạ… Quan trao cho nó một cây gậy, bảo nó cứ giữ cho đến khi có ai điên rồ hơn nó thì hãy cho. Cách vài hôm sau, quan thọ bệnh nguy kịch. Hề ta vào thăm, hỏi rằng:
- Khi qua đời rồi, quan sẽ đi đâu?
- Ta đi xa lắm.
- Vậy bao giờ quan về? Một tháng nữa chăng?
- Không.
- Một năm à?
- Cũng không.
- Vậy thì bao giờ quan mới về?
- Chẳng bao giờ về được.
- Thế thì trong cuộc man du đó quan đã sắm sẵn hành trang gì chưa?
- Chưa sắm gì hết.
- Đi xa mà chẳng có hành trang gì, quan thật điên hơn tôi. Vậy xin nhận lấy cây gậy này (Ms Lê Văn Thái, Những tia sáng 2, tr 159).
Giờ đây, trong tâm tình chờ đợi ngày trở lại của Đức Kitô, chớ gì từng người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết mau mắn thực hiện ngay những gì mà mình có thể làm được. Chúng ta hãy mau chóng đến với bí tích hoà giải, để giao hoà với Chúa và anh chị em. Chúng ta hãy mở cửa lòng mình để chia sẻ cho anh chị em mình một chút tình thương. Chúng ta hãy dành thời giờ để lắng nghe và chia sẻ với những người thân yêu trong gia đình: cha mẹ với con cái, anh chị em với nhau.
Trong thời gian chờ đợi “Ngày của Chúa”, chúng ta hãy cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày cách tốt đẹp hơn. Khi Chúa đến, chúng ta sẽ không phải bồn chồn lo lắng, trái lại sẽ vui vẻ đón Chúa trong niềm tin tưởng và chờ đợi Chúa đưa chúng ta vào cõi vĩnh hằng hưởng hạnh phúc đời đời.
LỄ KÍNH TRỌNG THỂ: CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt Nam long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo Việt Nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt Nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của Chân phước Anrê Phú Yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt Nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.
Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt Nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:
- Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có 1 vị.
- Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.
- Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
- Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
- Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
Cũng nên biết qua về kế hoạch Phân sáp của vua Tự Đức, một kế hoạch quá sâu độc! Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của loài người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa. Kế hoạch Phân sáp được vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856. Do sự thi hành kế hoạch Phân sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh mục Việt Nam và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì đạo.
Kế hoạch phân sáp gồm bốn mặt:
- Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
- Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
- Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá huỷ, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà nước.
- Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Đây là một kế hoạch rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội VN tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt Nam, hiện nay, vẫn mạnh và vươn lên.
Có nhiều lý do đẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị. Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo tại Việt Nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt Nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây Ban Nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức....
Giáo hội tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam vào năm 1960.
II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO
Xưa nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv... Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.
Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội Công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martys này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó mà sổ các thánh được gọi là Martyrologie.
Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi, chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô. (Lm. Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)
Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết. Còn cách sử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.
Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này. Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó. Ngài không những đã biết trước cái chết, mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố: “Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”. Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo: đó là hiến mạng sống, để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.
Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán: “Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta” (Ga 12, 22). Từ ngày đó, Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa, để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sở khai với cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Rôma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.
Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên: “Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.
Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng nên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).
Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa? Thưa vì người ta quí sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lầy được vì: “Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8, 36).
Truyện: Xin mua được một linh hồn
Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh Hoá. Một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là Mới – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.
- Mới - quan nói - con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.
- Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.
- Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp thánh giá đi.
- Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.
- Sao? Quan sửng sốt, quát: Thế còn chưa đủ ư? Vậy mày muốn bao nhiêu?
- Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã...
Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.
III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY
1. Theo công đồng Vatican II
Trong hiến chế Lumen Gentium, Công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử đạo có từ trước. Theo công đồng, tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xẩy ra cho Hột thánh (LG. số 42).
Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr: “Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh, mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.
Nhà thần học Urs von Balthasar cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng: tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kitô giáo.
Étienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.
2. Tư tưởng chung thời nay
Nếu như các nhà thần học nói: “Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy? Chắc không phải thế. Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn. Ta đặt câu hỏi: bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không?
Ngay từ xưa người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa các anh hùng tử đạo. Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo:
* Tử đạo đỏ: là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.
* Tử đạo trắng: sống đời hãm mình trinh tiết.
* Tử đạo xanh: chịu đoạ đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.
Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng: “Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu quy tụ mọi ơn gọi của tôi. Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi: ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).
Mọi người đều quí trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua, để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa: “Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau...” (x. Mc 8, 35). Và như thánh Phaolô nói: “Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2 Cr 6, 9-10).
Truyện: Chết theo lệnh vua
Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương. Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đoàn quân đang vây hãm và hỏi Alexandre:
- Nhà ngươi muốn gì?
- Ta muốn nhà vua đầu hàng.
- Đầu hàng? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi?
- Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngoài thành.
Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
Đoàn quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khoảng không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.
Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng, nhà vua và toàn quân trong thành mở cửa qui hàng.
Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt Nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Chúng ta nghĩ thế nào về những cái chết anh hùng của cha ông chúng ta đã dâng hiến mạng sống mình cho Chúa? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài?
Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.
Lễ kính các thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh, vì các Ngài đã mở trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.
Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.
Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận: “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.
Không biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại, khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
Giáo hội Việt Nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh gồm 26 giáo phận, với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc hơn 6 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh hoạt:Cái nhà là nhà của ta,
Công khó ông cha làm ra
Cháu con hãy gìn giữ lấy
Muôn năm với nước non nhà.
Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt Nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là: “Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”. Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu: “Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”.
Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”. Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23).
Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: “Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.
4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)