ĐỨC MARIA TRONG TÂN ƯỚC
Chương I:
CUỘC ĐỜI CỦA ĐỨC MARIA TRƯỚC KHI XẢY RA BIẾN CỐ TRUYỀN TIN
(Luca 1: 26-27)
Tác giả: Edward Sri
Chuyển ngữ: Duc Trung Vu, CSsR
Từ sách: Rethinking Mary
in the New Testament
WHĐ (31.8.2021) - Cuộc sống của Đức Maria như thế nào trước
khi sứ thần Gabriel hiện ra với ngài? Trong suốt nhiều thế kỷ, các Kitô hữu đã
đưa ra nhiều suy đoán về giai đoạn đầu đời của Đức Maria, và nhiều truyền thống
khác nhau đã phát triển để nói về sự ra đời, thời thơ ấu và sự hứa hôn của cô
thiếu nữ Maria với chàng Giuse. Nhưng bản thân Tân Ước thì không cung cấp nhiều thông
tin liên quan đến Đức Maria trước khi Truyền tin.
Phúc âm Luca giới thiệu về Đức Maria trong hai câu 1: 26-27
chỉ với những điểm ngắn gọn sau đây:
1) Cô thiếu nữ ấy đang sống trong
“một thành phố miền Galilê có tên là Nazareth” (1:26);
2) là một "trinh nữ" đã
được "hứa hôn";
3) được hứa hôn với một người tên
là Giuse, một người “thuộc nhà Đavít” (1:27); và
4) tên là Maria (1:27).
Phải thừa nhận rằng đây có vẻ như là những chi tiết rất nhỏ
— không đủ để hiểu về cuộc sống ban đầu của Đức Maria. Nhưng trên thực tế, chúng
ta sẽ thấy có rất nhiều ý nghĩa trong mỗi luận điểm nhỏ này. Vì vậy, nếu bạn muốn
có ít nhất một bản phác thảo về những gì Kinh thánh cho chúng ta biết về cuộc đời
của Đức Maria trước biến cố sứ thần Gabriel hiện ra với ngài, thì hãy giải nén
tất cả những gì có thể thu thập được từ hai câu Phúc Âm ngắn gọn này.
Thứ nhất, Đức Maria sống ở “một thành miền Galilê có tên là
Nazareth.” Đức Maria được giới thiệu là đang cư ngụ tại một ngôi làng ít người
biết đến ở Galilê, ước tính có diện tích khoảng 25 Hecta và chỉ có khoảng 480
người vào đầu thế kỷ thứ nhất.[1]
Nhưng Nazareth không chỉ nhỏ về kích thước của nó; nó nhỏ về
cả tầm quan trọng trong thời của Chúa Giêsu. Bản thân ngôi làng không bao giờ
được nhắc đến trong Cựu ước. Hơn nữa, các tác phẩm của sử gia Do Thái thế kỷ thứ
nhất Josephus cũng như của các rabbi Do Thái cổ đại thậm chí cũng không đề cập
đến địa điểm này. Mặc dù những thành khác lớn hơn, nổi tiếng hơn như Giêrusalem
(Lc 2,22); Rôma (Công vụ 2:10); hoặc Phênixia, Síp và Antiốt (Công vụ 11:19)
không nhận được sự giới thiệu trong Phúc Âm Luca và Sách Công vụ Tông Đồ, thế
mà trong câu chuyện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca giới thiệu ba lần về
ngôi làng của Đức Maria, là một phần của Galilê (1:26; 2: 4, 39) — có lẽ bởi vì
hầu hết độc giả của thánh Luca không phải là người Palestine nên họ chưa bao giờ
nghe nói về Nazareth.[2]
Có thể yên tâm khi nói rằng Nazareth không nằm trong danh
sách 10 địa điểm được kì vọng nhất của hầu hết mọi người về nơi Đấng Mêsia sẽ
sinh ra. Nhận xét châm biếm nổi tiếng của Nathanael: "Có thể có gì tốt đẹp xuất phát từ Nazareth không?" (Ga
1:46) phản ánh quan điểm tiêu cực mà ít nhất một số người có về ngôi làng của Đức
Maria. Việc Thiên Chúa chọn một thiếu nữ trẻ từ nơi thấp hèn này để trở thành mẹ
của Đấng Mêsia quả là một điều đáng kinh ngạc!
Điều này càng đáng chú ý hơn khi người ta nhận ra sự tương
phản hoàn toàn giữa nơi Đức Maria cư ngụ và nơi câu chuyện vừa diễn ra trước đó
trong Phúc âm Luca. Cảnh mở đầu của Luca kể về việc sứ thần Gabriel hiện ra với
thầy tư tế Zacharia trong Đền thờ Giêrusalem, thông báo rằng người vợ son sẻ của
ông sẽ trở thành mẹ của Gioan Tẩy Giả. Hãy nghĩ về điều này: chuyến viếng thăm
đầu tiên của sứ thần diễn ra ở nơi linh thiêng nhất trên mặt đất. Sứ thần
Gabriel xuất hiện với ông Zacharia trong khi ông đang phục vụ ở Cung Thánh
trong Đền thờ, “một cửa che kín” ngăn cách với Nơi Cực Thánh, nơi sự hiện diện
của Vinh quang của Đức Chúa đã thể hiện (1 Các Vua 8: 10-11).[3]
Sau cảnh đó, độc giả đột ngột rời khỏi Đền Thánh đến ngôi
làng Nazareth ít người biết đến, nơi mà cùng một sứ thần đã hiện ra với Đức
Maria. Cách xa thành phố thánh Giêrusalem, chính tại ngôi làng Nazareth khiêm tốn
này mà Đức Maria đang cư trú. Đối với độc giả, sự tương phản chói tai giữa ông
Zacharia phục vụ trong Đền thờ thánh thiêng và Đức Maria cư ngụ ở “Nazareth hẻo
lánh ít kẻ biết đến” được nhận ra rõ ràng.
Thứ hai, Đức Maria là một trinh nữ đã được hứa hôn. Hứa hôn
là giai đoạn đầu tiên của quá trình tiến đến hôn nhân (bao gồm hai bước) trong
xã hội Do Thái ở thế kỷ thứ nhất và hoàn toàn khác với khái niệm “đính hôn”
trong xã hội phương Tây hiện đại. Vào lễ hứa hôn của Đức Maria, cô dâu và chú rể
chính thức nói lời ưng thuận trước sự chứng kiến của các nhân chứng (xem MaI
2:14). Điều này đã tạo nên một mối ràng buộc pháp lý giữa hai người, và sau đó
họ sẽ được coi là đã kết hôn. Người phụ nữ sẽ được gọi là “vợ” của chú rể (xem
Mt 1:20, 24), và sự kết hợp này chỉ có thể phá bỏ khi họ ly hôn. Bất kỳ vi phạm
nào đối với các quyền liên quan tới hôn nhân của người đàn ông sẽ được coi là
ngoại tình.
Vào thời điểm đó, các cô gái Do Thái thường được hứa hôn khi
còn trẻ, ở độ tuổi mười hai và mười ba. Sau khi hứa hôn, người vợ thường ở nhà
gia đình nhà gái tối đa một năm. Sau đó, diễn ra việc “đưa” vợ về nhà của người
chồng, bước thứ hai của quá trình hôn nhân. Chỉ sau khi việc này hoàn tất, thì
việc người đàn ông chăm sóc cho vợ mình và quan hệ tình dục trong hôn nhân mới
chính thức bắt đầu.[4] Vì vậy, ở điểm này, khi
chúng ta đọc câu chuyện Đức Maria được hứa hôn với thánh Giuse, chúng ta hiểu rằng
Đức Maria đã kết hôn hợp pháp với thánh Giuse, nhưng chưa ở giai đoạn thứ hai của
hôn nhân khi cô sẽ về sống chung một mái nhà với thánh Giuse.
Bối cảnh này làm cho Luca 1:27 trở nên nổi bật hơn cả. Chỉ
trong một câu, Luca đã hai lần đề cập đến việc Đức Maria là một trinh nữ. Điều
này khá kỳ quặc. Nếu Đức Maria là một người phụ nữ đã hứa hôn, cô ấy có lẽ sẽ
là một trinh nữ vì cô ấy chưa đến giai đoạn “đón dâu” và hoàn thành cuộc hôn
nhân của mình. Rõ ràng Đức Maria đã hứa hôn và sau đó nói rằng cô ấy là một
trinh nữ, theo một nghĩa nào đó, là thừa. Vậy tại sao Luca lại đề cập đến việc
Đức Maria là một trinh nữ - không chỉ một lần mà hai lần trong một câu? Luca
làm như vậy để thu hút sự chú ý đến khía cạnh trinh tiết của Đức Maria theo một
cách độc đáo, vì nó sẽ đóng một phần quan trọng của câu chuyện khi nó hé lộ ra.
Việc nhấn mạnh đến sự đồng trinh của Đức Maria ở ngay khúc đầu của câu chuyện
đã chuẩn bị cho việc sứ thần loan báo về việc thụ thai đồng trinh độc nhất, kỳ
diệu của Hài nhi sẽ sớm được công bố (1:35).[5]
Thứ ba, Đức Maria được hứa hôn với “một người tên là Giuse,
thuộc nhà Đavít” (Lc 1,27). Giuse là một cái tên phổ biến trong Kinh thánh được
sử dụng vào thời kỳ hậu lưu đầy (Et 10:42; Nh 12:14; 1 Sbn 25: 2, 9).[6] Điều thú vị là thánh Giuse,
người được mô tả là “thuộc nhà Đavít,” nhận được nhiều lời giới thiệu hơn là Đức
Maria, người chỉ được giới thiệu một cách đơn giản (“Và tên trinh nữ là Maria”
[Lc 1,27]). Nền tảng gia đình của Đức Maria thậm chí còn không được đề cập đến.
Như học giả Tân Ước Joel Green nhận xét, “Thánh Giuse — người hầu như không có
bất kỳ vai trò nào trong Luca 1-2 và chỉ được đề cập đến ở một lần khác trong
Luca 3: 23 — lại nhận được giới thiệu kĩ càng hơn Đức Maria, nhân vật chính
trong câu chuyện về sự ra đời của Hài Nhi. Tại sao vậy? Vì sao thánh Luca quan
tâm đến nguồn gốc hoàng gia của thánh Giuse”.[7]
Thật vậy, cụm từ “nhà Đavít” này đã được dùng trong Cựu Ước để chỉ con cháu của
Đavít.[8] Luca đề cập đến chi tiết về
dòng dõi của thánh Giuse để chuẩn bị cho người đọc nhận ra Chúa Giêsu chính là
người thừa kế của dòng tộc vua Đavít — một chủ đề sẽ được phát triển rộng rãi
trong suốt cảnh Truyền tin này.[9]
Thứ tư, tên cô ấy là Maria. Maria (Mariam) là dạng tiếng Hy
Lạp của tên Mirium trong tiếng Do Thái, khiến người đọc liên tưởng đến em gái của
Môsê (Xuất hành 15:20), người phụ nữ duy nhất trong Cựu ước mang tên đó. Ý
nghĩa của nó đã được mô tả theo nhiều cách khác nhau, bao gồm "nổi loạn",
"myrh- mộc dược" hoặc "biển đắng", nhưng bản thân cái tên
này có thể liên quan đến từ myrm trong tiếng Do Thái và Ugaritic, nó có nghĩa
là "độ cao", "chóp đỉnh", hoặc “một người được tôn vinh”[10] — một bối cảnh phù hợp cho
tên của người nữ sắp trở thành mẹ của Đấng Mêsia và người trong Kinh Magnificat
sẽ mô tả mình là người được Thiên Chúa tôn vinh là độc nhất vô nhị (x. Lc 1:49;
1:52).
Chắc chắn, những chi tiết nhỏ này trong Kinh thánh không cho
chúng ta một bức tranh bao quát về cuộc đời của Đức Maria trước khi Truyền tin.
Ngài sống trong ngôi làng Nazareth ít người biết đến ở Galilê. Ngài là một cô
gái trẻ đã hứa hôn, ở giai đoạn đầu của cuộc hôn nhân, ngài vẫn còn trinh và
chưa chung sống với chồng. Người hứa hôn của ngài tên là Giu-se thuộc hoàng tộc
Đavít. Nhưng khi những chi tiết từ Luca 1: 26-27 được xem xét dựa trên bối cảnh
trước đó trong tường thuật của thánh Luca, việc truyền tin tới ông Zacharia về
việc ra đời của Gioan Tẩy Giả (1: 5-25), chúng làm sáng tỏ những gì thánh Luca
dự định tiết lộ về Đức Maria và người con Giêsu của ngài. Một mặt, chúng ta sẽ
thấy rằng rất nhiều điểm tương đồng giữa hai cảnh này sẽ nhấn mạnh cách chúng cần
được đọc dưới ánh sáng của nhau và cách mà Đức Maria và Chúa Giêsu, cùng với
ông Zacharia và Gioan Tẩy giả, bị cuốn vào một mục đích thiêng liêng duy nhất, ấy
là: Kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, sẽ đạt đến sự hoàn thành tột đỉnh với sự
xuất hiện của Đấng Cứu Thế.
Mặt khác, chúng ta sẽ thấy rằng sự tương phản giữa hai cảnh
này - và đặc biệt, sự khác biệt giữa ông Zacharia và chính Đức Maria - thu hút
sự chú ý đến công việc độc nhất mà Thiên Chúa đang thực hiện nơi Đức Maria, khiến
ngài trở thành Mẹ Đấng Mêsia của dân Israel.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét mối liên hệ giữa hai
cảnh.
Đầu tiên, thánh Luca tạo nên khung cảnh của lời thông báo của
sứ thần tới Đức Maria với sự ám chỉ đến việc sứ thần Gabriel hiện ra với
Zacharia. Khi bắt đầu tường thuật, thánh Luca giới thiệu sự xuất hiện của sứ thần
với Đức Maria diễn ra “vào tháng thứ sáu” (1:26) — một điểm tham chiếu theo
trình tự thời gian xuất phát từ việc thánh Luca đề cập đến khoảng thời gian
“năm tháng” bà Êlisabét tự ẩn mình đi khi mang thai (1: 24-25). Việc thánh Luca
đề cập đến “tháng thứ sáu” ngay sau “năm tháng” bà Êlisabét ẩn mình tạo nên một
liên kết có chủ ý để trở lại khung cảnh trước đó. Nó cho thấy câu chuyện của Đức
Maria là sự tiếp nối của ông Zacharia như thế nào. Hai câu chuyện là một phần của
một câu chuyện lớn hơn trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Ở cuối câu chuyện, thánh Luca đề cập một lần nữa đến việc bà
Êlisabét mang thai. Sứ thần Gabriel tiết lộ cho Đức Maria biết rằng bà Êlisabét
dù tuổi đã cao nhưng vẫn đang mang thai là một dấu hiệu cho thấy “với Thiên
Chúa, không điều gì là không thể xảy ra” (1: 36-37). Bằng cách này, thánh Luca
chủ đích đóng khung toàn bộ việc truyền tin cho Đức Maria trong mối liên hệ với
việc bà Êlisabét mang thai, cho thấy rằng hai câu chuyện có thể diễn giải lẫn
nhau.
Thứ hai, hãy để ý những điểm tương đồng sâu rộng giữa hai
câu chuyện thông báo sự ra đời này.[11]
Cả hai người sắp làm cha, mẹ được viếng thăm bởi cùng một sứ thần là Gabriel,
và cả hai đều “bối rối” trước cuộc gặp gỡ với vị khách đến từ trời cao (Lc 1:
11-12, 26-29). Sứ thần đảm bảo với cả hai rằng “Đừng sợ” (1:13, 30) và tiến
hành việc thông báo sự ra đời đầy bất ngờ của một người con trai, người sẽ
"trở nên lớn lao” và sẽ đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch cứu rỗi
của Thiên Chúa (1: 14- 17, 32-33). Cả hai đều hỏi một câu hỏi, điều này làm nổi
bật sự bất khả thi của con người trong việc thụ thai (1:18, 34) và cả hai đều
nhận được một dấu hiệu chứng tỏ bàn tay của Thiên Chúa thực sự can thiệp vào cuộc
sống của họ. Đối với ông Zacharia, dấu hiệu bị làm cho câm vì sự không tin của
ông (1:20), trong khi đối với Đức Maria, dấu hiệu là sự thông báo rằng người chị
em họ đã cao tuổi, tức là bà Êlisabét, người đã hiếm muộn, được mang thai một
cách kỳ diệu và đang ở tháng thứ sáu (1:36 ). Thật sự, sự tương đồng giữa hai cảnh
thông báo sự ra đời này cho thấy rõ rằng thánh Luca có ý định đọc chúng dưới
ánh sáng của nhau.
Ngoài ra, cả hai cảnh này đều gợi nhớ đến cách mà Thiên Chúa
hoặc các sứ thần của Ngài thông báo về sự ra đời của một người con trai trong Cựu
Ước (sẽ được thảo luận thêm trong Phụ lục). Chẳng hạn, khi cha mẹ của Ápraham
hoặc Samson nhận được thông báo từ trời cao về việc có con, có những yếu tố phổ
biến trong những lời tường thuật đó, chẳng hạn như sự xuất hiện của sứ thần (hoặc
chính Đức Chúa), người tiếp nhận sứ điệp phản ứng lại trong sự sợ hãi, việc
truyền tin về con trẻ, việc thụ thai, người tiếp nhận đưa ra một câu hỏi và một
dấu hiệu được đưa ra để đảm bảo với họ.
Một mặt, có nhiều điểm tương đồng có thể được tìm thấy giữa
các câu chuyện của ông Zacharia và Đức Maria với các câu chuyện thông báo về sự
ra đời của một con trẻ khác trong Kinh thánh, Joel Green chỉ ra rằng “hai câu
chuyện này giống nhau hơn so với sự giống nhau của các câu chuyện khác thuộc
cùng mẫu truyền tin này." [12] Joel Green chỉ ra nhiều điểm
chỉ xuất hiện ở hai câu chuyện này, mà không hề xuất hiện ở các câu chuyện
trong Cựu Ước, ấy là: “(1) Giới thiệu Cha Mẹ; (2) Những trở ngại cho sự ra đời
của con trẻ; (3) Gặp gỡ sứ thần, sứ thần Gabriel; (4) Lời đáp với sứ thần; (5)
‘Đừng sợ,’ với việc gọi tên người nghe; (6) Lời hứa về một bé trai sẽ ra đời;
(7) Phản ứng phản đối; (8) Trao Dấu hiệu; và (9) Sứ thần Gabriel từ biệt ra đi.
”[13]
Hơn nữa, cả hai câu chuyện đều sử dụng ngôn ngữ tương tự
nhau, điều này càng chứng tỏ rằng mỗi câu chuyện có nghĩa khi được giải thích
dưới sự tham chiếu tới câu chuyện kia. Hãy xem xét các điểm tương đồng:
|
Luca 1: 11-20
|
Luca 1: 28-38
|
1
|
“Zacharia bối rối và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông” (câu
12)
|
“Maria đã rất bối rối” (câu 29)
|
2
|
“Sứ thần bảo ông” (câu 13)
|
“Sứ thần liền nói với Maria” (câu 30)
|
3
|
“Đừng sợ” (câu 13)
|
“Đừng sợ” (câu 30)
|
4
|
“Sẽ sinh cho ông một đứa con trai” (câu 13)
|
“Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một người con trai ”(câu 31)
|
5
|
“Và ông phải đặt tên cho con là Gioan” (câu 13)
|
“và đặt tên là Giêsu” (câu 31)
|
6
|
“Em bé sẽ nên cao cả trước mặt Thiên Chúa” (câu 15)
|
“Người sẽ nên cao cả” (câu 32)
|
7
|
“Ông Zacharia đã thưa với sứ thần” (câu 18)
|
“Bà Maria thưa với sứ thần” (câu 34)
|
8
|
“Sứ thần đáp” (câu 19)
|
“Sứ thần đáp” (câu 35)
|
9
|
“Tôi được… Thiên Chúa… sai đi” (câu 19)
|
“Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel” (câu 26)
|
10
|
“Và kìa” (câu 20)
|
“Và kìa” (câu 36)
|
Tóm lại, những điểm tương đồng rộng rãi này cả về đặc điểm
và ngôn ngữ nhấn mạnh cách hai gia đình (của ông Zacharia và của Đức Maria) và
đặc biệt nhất là hai người con trai (thánh Gioan và Chúa Giêsu), như Robert
Tannehill mô tả, "một phần của một mục đích thiêng liêng duy nhất, đang
phát triển theo cùng một khuôn mẫu trong Kinh thánh."[14]
Hai cảnh mở đầu này — và những thông báo về hai người con trai được thuật lại —
phối hợp với nhau để công bố bình minh của thời đại thiên sai và sự hoàn tất kế
hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, những điểm tương đồng đa dạng này làm cho sự khác
biệt giữa hai câu chuyện lại càng trở nên nổi bật.[15]
Người ta thường để ý rằng thánh Luca nhấn mạnh sự ưu trội của
Chúa Giêsu so với Gioan Tẩy giả. Cả hai người con trai đều được định sẵn để làm
những điều vĩ đại cho Israel, nhưng Chúa Giêsu được trình bày rõ ràng là Đấng
Mêsia-Vua, trong khi Gioan là người sẽ dọn đường cho Chúa Giêsu. Tương tự, cả
hai người con trai đều được thụ thai một cách kỳ diệu, nhưng việc Chúa Giêsu thụ
thai bởi một trinh nữ làm lu mờ việc Gioan được thụ thai bởi một phụ nữ cao
niên.
Nhưng sự tương phản không chỉ xảy ra giữa Chúa Giêsu và
Gioan; Sự khác biệt giữa những người tiếp nhận sứ điệp của sứ thần Gabriel, ông
Zacharia và Đức Maria, cũng rất đáng kể. Hãy chú ý tới những điểm khác biệt giữa
hai bậc phụ huynh này:
- Một người đàn ông lớn tuổi và một
người thiếu nữ trẻ tuổi: Ông Zacharia là một người đàn ông lớn tuổi; Đức Maria
là một thiếu nữ trẻ, người được hứa hôn, có thể trẻ khoảng mười hai hoặc mười
ba tuổi.
- Một tư tế và một người Israel
bình thường: Ông Zacharia được giới thiệu là một tư tế thuộc tầng lớp tư tế
Abija, và vợ của ông được giới thiệu là hậu duệ của Arôn. Ngược lại, Đức Maria
không có vị trí chính thức nào trong cơ cấu tôn giáo của người Do Thái. Ngài chỉ
đơn giản là một người nữ đã hứa hôn, mà nguồn gốc gia đình thậm chí còn không
được đề cập đến.
- Chức năng thiêng liêng và Đời sống
bình thường: Cuộc gặp gỡ của ông Zacharia với sứ thần diễn ra trong khi ông
đang thực hiện nhiệm vụ tư tế danh giá nhất. Ông được chọn bằng cách bốc thăm
ngẫu nhiên để dâng hương, một trách nhiệm cho phép một tư tế bình thường như
ông Zacharia được đến gần nơi Cực Thánh. Bằng cách dâng hương, ông Zacharia sẽ
đại diện cho toàn thể dân Chúa, thay mặt họ dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa.
Ngược lại, Đức Maria không được mô tả là đang phục vụ trong bất kỳ tư cách
chính thức nào cho dân Israel hoặc thực hiện bất kỳ công việc cụ thể nào khi sứ
thần Gabriel xuất hiện với ngài.
- Nơi linh thiêng và bình thường:
Địa điểm diễn ra các cuộc truyền tin cũng là một sự khác biệt đáng kể. Cuộc gặp
gỡ của ông Zacharia với sứ thần diễn ra tại một địa điểm linh thiêng nhất:
trong thành phố Giêrusalem, trong Đền thờ của Đức Chúa, tại bàn thờ dâng hương,
gần với nơi Cực Thánh. Trái lại, Đức Maria ở rất xa Đền thờ Giêrusalem, đang cư
ngụ trong ngôi làng Nazareth tầm thường và bị chê bai ở Galilê. Thậm chí còn
không có một bối cảnh cụ thể nào ở Nazareth được đề cập đến.
- Giờ thiêng liêng và bình thường:
Cuối cùng, thời gian của các cuộc truyền tin cũng khác nhau. Ông Zacharia nhận
được thông điệp của sứ thần Gabriel trong thời gian thờ phượng thiêng liêng tại
Đền thờ: dân chúng hiệp nhất cầu nguyện với tư tế đang dâng hương thay mặt họ.
Khi ông Zacharia đi ra khỏi Nơi Cực Thánh, những người tụ tập bên ngoài nhận ra
“ông đã thấy một thị kiến trong đền thờ” (1:22). Ngược lại, không có thời gian
đặc biệt nào được ghi nhận cho cuộc Truyền Tin của Đức Maria, và không có đề cập
đến những người tụ tập quanh đó sau khi Đức Maria nhận được sứ điệp. Việc Truyền
Tin của Đức Maria dường như là một chuyện hoàn toàn riêng tư giữa khung cảnh cuộc
sống thường ngày của ngài.
Dưới sự chú ý của thánh Luca khi giới thiệu và khắc họa các
nhân vật khác trong Luca 1-2,[16] những khác biệt về xã hội,
phụng vụ và địa lý này khá đáng kể. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất giữa ông
Zacharia và Đức Maria thể hiện rõ nhất qua cách các ngài phản ứng với sứ điệp của
sứ thần. Ở đây, Đức Maria nổi lên rõ ràng là nhân vật cao quý hơn. Trong khi
ông Zacharia bị sứ thần nhắc nhở vì sự không tin và bị trở nên câm, thì Đức Maria
đáp lại với đức tin mẫu mực và được giải thích thêm và trấn an thêm về sứ mệnh
làm mẹ Chúa Cứu Thế của mình (1: 34-38).
Sự đối lập giữa sự tin và sự không tin như vậy càng đáng chú
ý hơn bởi cách mà Đức Maria được giới thiệu đơn thuần là một trinh nữ ở
Nazareth, trong khi ông Zacharia được giới thiệu một cách ấn tượng với tư cách
là một tư tế công chính thực hiện chức năng thiêng liêng nhất ở nơi Cực Thánh của
Đền thờ mà ông có thể đi vào. Chắc chắn ông phải là người mà chúng ta kì vọng sẽ
đáp lại lời truyền tin bằng một đức tin xác tín!
Tuy nhiên, như Green nhận xét, “Sự tương phản với ông
Zacharia - một người nam, một người cao niên, một thầy tư tế - hiếm có thể rõ
ràng hơn; ông ấy không tin [Lc 1, 20] nhưng Đức Maria thì có”[17]. Thật vậy, Đức Maria được
trình bày trong Phúc âm Luca như một gương mẫu của đức tin. “Đức Maria, người
dường như bị đánh giá thấp trên bất kỳ thang địa vị nào — tuổi tác, gia đình,
giới tính, v.v. — hóa ra lại là người được Thiên Chúa ưu ái và là người tìm thấy
địa vị và căn tính của mình nhờ sự vâng lời Thiên Chúa và tham gia vào công
trình cứu độ của Ngài.”[18]
Bình luận của về Tin mừng Luca và Sách Công vụ, F. Scott
Spencer còn rút ra sự tương phản giữa ông Zacharia và Đức Maria như thế này: “Một
thầy tư tế lớn tuổi, khôn ngoan, trung thành 'tuân theo mọi điều răn và quy định
của Chúa' (1: 6) đáng lẽ nên nhớ nằm lòng rằng nguồn gốc xa xưa của dân giao ước
của Đức Chúa lần đầu tiên nảy mầm với sự phú ban một đứa con trai (Isaac) từ Đức
Chúa dành cho một người đàn bà son sẻ đã 90 tuổi (Sarah) và người chồng 100 tuổi
của bà (Ápraham) (Gn 17: 15-22; 21: 1-7) và cũng nên nhớ rằng tại một ngã ba
quan trọng khác trong lịch sử Israel, Thiên Chúa đã lắng nghe lời cầu nguyện của
một phụ nữ tuyệt vọng không có con (Hannah) trong cung thánh và đã cho bà sinh
hạ một đứa con trai (Samuel) (1 Sm 1: 1-20; x. Ga 13: 2- 25) ”.[19]
Tuy nhiên, việc truyền tin cho Đức Maria, một thiếu nữ trẻ,
là chuyện chưa từng diễn ra trong Cựu Ước. Như Spencer giải thích, “việc kì lạ
'sinh ra bởi một trinh nữ’ mà Gabriel báo cho Đức Maria không có nguyên mẫu
trong Kinh thánh Cựu Ước để cho Đức Maria có thể xem xét. Phụ nữ hiếm muộn có
thể thụ thai một cách thần kỳ, nhưng họ vẫn cần một người phối ngẫu; Những
trinh nữ không ‘biết đến việc vợ chồng’, theo định nghĩa, là không thể có con.
Vì vậy, khác với ông Zacharia, Đức Maria có thể được tha thứ vì đã yêu cầu
Gabriel làm giải thích rõ”. Hơn nữa, câu hỏi của Đức Maria về cơ bản khác với
câu hỏi của ông Zacharia. Ông Zacharia nghi ngờ, trong khi Đức Maria chỉ thắc mắc
cuộc sinh nở này sẽ diễn ra như thế nào. "Thắc mắc của Đức Maria là về quy
trình, không phải là yêu cầu về bằng chứng."[20]
Với những chi tiết này về Đức
Maria trước khi Truyền tin, bây giờ chúng ta hãy hướng sự chú ý đến lời thông
báo của sứ thần Gabriel với Đức Maria bằng cách tập trung vào lời đầu tiên mà
thiên thần nói với ngài: “Kính mừng!" hoặc, như chúng ta sẽ thấy,
"Hãy vui lên!"
William Petersen, “Nazareth” trong từ điển Anchor
Bible Dictionary, tổng biên tập. David Noel Freedman (New York: Doubleday,
1992), vol. 4, 1050.
I. Howard Marshall, The Gospel of Luke (Grand Rapids:
Eerdmans, 1978), 64.
Joel Green, The Gospel of Luke (Grand Rapids:
Eerdmans, 1997), 84.
Tham khảo Joachim Jeremias, Jerusalem in the Time of
Jesus (Philadelphia: Fortress Press, 1969), 365-68; Raymond Brown, The Birth of
the Messiah (Garden City, New York: Doubleday, 1977), 324. Các tham khảo ở cuốn
The Birth of the Messiah của Brown được
lấy từ bản in năm 1977 nếu không có chú thích gì thêm.
Điều này cũng liên quan tới (như chúng ta sẽ thấy ở
chương 4) lời tiên tri về Đấng Emmanuel ở Isaiah 7:14: “Một trinh nữ sẽ thụ
thai và sinh hạ một con trai và con trẻ sẽ được gọi là Immanuel. . . .”
Joseph Fitzmyer chỉ ra rằng danh xưng này chắc chắn
là một dạng tên viết tắt của từ Yosipyah, nghĩa là “Xin Đức Chúa làm gia tăng
thêm.” Joseph Fitzmyer, The Gospel According to Luke I-IX (New York: Doubleday,
1983), 344.
1 Sm 20:16; 1 Kgs 12:19; 13:2; 2 Chr 23:3. Mark
Strauss, The Davidic Messiah in Luke-Acts: The Promise and its Fulfillment in
Lukan Christology (JSNTSup 110) (Sheffield: Sheffield Academic Press, 1995),
87. Việc trinh nữ thụ thai không làm phai mờ đi vai trò là cha của Giuse, bởi
vì nhờ vào đó mà Chúa Giêsu trở thành thành viên của dòng tộc thánh Giuse. Xem
thêm Marshall, The Gospel of Luke, 157.
Fitzmyer, Luke I-IX, 344. Manelli, All Generations
Shall Call Me Blessed, 161.
Tham khảo tại:
Brown, Birth of the Messiah, 248-53, 292-98, 408-10; Fitzmyer, Luke
I-IX, 313-15; Robert Tannehill, The Narrative Unity of Luke-Acts (Philadelphia:
Fortress, 1995), 15-20.
Tannehill, Narrative Unity, 16.
“Sự giống nhau về cấu trúc và nội dung giữa hai cảnh
mời gọi người đọc chú ý hơn đến sự khác biệt giữa hai cảnh này.” R. Alan
Culpepper, “Luke” in The New Interpreter’s Bible, ed. Leander E. Keck, et al.
(Nashville: Abingdon, 1995).
Zechariah and Elizabeth trong Tin mừng Luca 1:5-9;
Simeon trong Luca 2:25-27; Anna trong Luca 2:36-38. Tham khảo. Joel Green, “The
Social Status of Mary,” 457-71.
Green, “The Social Status of Mary,” 470.
Ibid, 468. Luke Johnson có cùng quan điểm: “Việc Đức
Maria ‘được Thiên Chúa ưu ái’ và ‘ban
ơn’ cho thấy Luca muốn trình bày rằng Thiên Chúa có cách hoạt động mang đầy sự
ngạc nhiên và thường làm đảo ngược sự kì vọng theo lẽ thường tình của người đời.”
Luke Johnson, The Gospel of Luke (Collegeville, MN: Liturgical Press, 1991),
39. Việc Đức Maria thành Nadarét được tuyển chọn làm mẹ của Đấng Mêsia tiên báo
chủ đề về sự đảo ngược sẽ được phát triển nhiều hơn trong Kinh Magnificat. (sẽ
bản tới vấn đề này ở chương 10).
F. Scott Spencer, The Gospel of Luke and Acts of the
Apostles (Nashville: Abingdon Press, 2008), 103.