Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 2 mùa Vọng năm B

Đức GiêSu Đã, Đang Và Mãi Mãi Yêu Chúng Ta Cho Đến Cùng

"Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta"

Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 2 mùa Vọng năm B

Hiệp sống Tin mừng: Chúa nhật 2 mùa Vọng năm B

Is 40,1-5.9-11 ; 2 Pr 3,8-14 ; Mc 1,1-8
DỌN TÂM HỒN ĐÓN ĐẤNG THIÊN SAI GIÊ-SU

 

I. HỌC LỜI CHÚA
 

1.TIN MỪNG: Mc 1,1-8
 

(c 1) Khởi đầu Tin mừng Đức Giêsu Ki-tô, Con Thiên Chúa. (c 2-3) Chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. (c 4-5) Ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép Rửa cho họ trong sông Gio-đan. (c 6) Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. (c 7-8) Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau. Tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép Rửa cho anh em nhờ nước. Còn Người, Người sẽ làm phép Rửa cho anh em trong Thánh Thần.
 

2. Ý CHÍNH: 
 

Sách Tin Mừng thứ hai bắt đầu với lời rao giảng của ông Gio-an Tẩy Giả. Mác-cô giới thiệu Gio-an là vị tiền sứ của Đức Giê-su, có sứ mạng đi trước để dọn đường cho Người (c 2-3). Gio-an thực hiện sứ mạng bằng việcrao giảng để kêu gọi mọi người phải ăn năn sám hối và sẽ được thanh tẩy nhờ phép rửa dìm mình trong nước sông Gio-đan. Cuối cùng chính Gio-an đã giới thiệu về con người và sứ mạng của Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Mc 1,7-8).
 

3. CHÚ THÍCH: 
 

- (c 1) Tin Mừng: Một từ ngữ Hy Lạp (Euaggelion) có nghĩa là Tin vui, Tin mừng. Ta có thể hiểu Tin mừng Đức Giê-su Ki-tô theo hai nghĩa: Một là chính Tin mừng đã được Đức Giê-su rao giảng. Hai là Tin mừng về Đức Giê-su được Hội Thánh công bố. Như vậy, Đức Giê-su vừa là người rao giảng Tin mừng, lại vừa là đối tượng của Tin mừng được rao giảng (x. Mc 8,38;10,29). + Giê-su: có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ (x. Mt 1,21). Đức Giê-su là một nhân vật lịch sử có thật, quê tại làng Na-gia-rét miền Ga-li-lê (x. Mc 1,9), làm nghề thợ mộc, là con của bà Ma-ri-a, là anh em bà con với các ông Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon (x. Mc 6,3). + Ki-tô: Ki-tô hay Mê-si-a có nghĩa là Đấng được xức dầu hay được thánh hiến. Trong Cựu Ước có ba chức vị được xức dầu tấn phong là: vua, tư tế và ngôn sứ. Chẳng hạn: Đa-vít được ngôn sứ Sa-mu-en xức dầu phong làm vua (x. 1 Sm 16,13), A-a-ron được Mô-sê xức dầu phong làm tư tế (x. Lv 8,12), Ê-li-sê được Ê-li-a xức dầu phong làm ngôn sứ (x. 1 V 19,16). Qua câu này, Mác-cô quả quyết Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai hay Đấng Mê-si-a cũng gọi là Ki-tô mà người Do-thái đang mong đợi (x. Cv 10,38; Lc 4,18-19). + Con Thiên Chúa: Tước hiệu Con Thiên Chúa tương đương với tước hiệu Con Vua Đa-vít (x. Mc 14,61-62a). Với sự xuất hiện của Đức Giê-su, thời đại hoàng kim của nhân loại đã khởi đầu: Từ đây nhân loại sẽ được giải thoát khỏi ách nặng nề của lề luật, khỏi làm nô lệ cho ma quỉ, nhưng được trở nên con cái của Thiên Chúa (x. Mt 5,9), được gọi Chúa là “Áp-ba, Ba ơi ! ” (x. Gl 4,6), được nên nghĩ̃a tử của Thiên Chúa nhờ tin yêu kết hiệp với Đấng Ki-tô (x. Gl 3,26-28).
 

- (c 2-3) Lời đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a: Đây là một đoạn Lời Chúa trích ra từ sách ngôn sứ I-sai-a (40,3). Qua câu này, Mác-cô muốn ám chỉ Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa trao cho sứ mạng làm Mô-sê Mới của thời Tân Ước để thực hiện một cuộc Xuất Hành Mới. Người sẽ dẫn đưa dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh vượt qua sa mạc trần gian để về miền Đất Hứa là Nước Trời đời sau. + Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con: Vị sứ giả đây chính là Gio-an Tẩy giả. Ông đã được trao sứ mạng tiền hô, nghĩa là công việc của người đi trước hô to lên cho mọi người biết và dẹp đường để đón Đấng Thiên Sai sắp đến.

 

- (c 4-5) Phép rửa của Gio-an Tẩy giả: Gio-an làm phép rửa để giúp người ta tỏ lòng sám hối tội lỗi và cầu xin Chúa tha tội. Đồng thời, cũng để chuẩn bị giúp họ đón nhận ơn cứu độ của Đấng Thiên Sai. Nghi thức phép rửa của Gio-an gồm việc khiêm nhường xưng tội trước khi được Gio-an dìm mình dưới nước sông Gio-đan.
 

- (c 7-8) Bí tích Rửa tội của Đức Giê-su: Sau khi được Gio-an dìm mình dưới nước sông Gio-đan, Đức Giê-su đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống trên mình. Qua cuộc thần hiện này, Người đã thiết lập bí tích rửa tội để ban cho những ai có lòng sám hối và có đức tin sẽ được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa (x. Mt 28,19). Trong nghi lễ rửa tội, sau khi tuyên bố từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin, người chịu phép sẽ được vụ chủ sự dìm mình trong giếng nước hay được dội nước trên đầu, và còn được xức dầu thánh để nên dưỡng tử của Thiên Chúa.
 

4. CÂU HỎI: 
 

1) Tin mừng Đức Giê-su Ki-tô có ý nghĩa thế nào? 
 

2) Ý nghĩa của hai từ Giê-su và Ki-tô khác nhau ra sao? 
 

3) Phân biệt giữa phép rửa do Gio-an thực hiện với phép rửa tội do Đức Giê-su thiết lập giống và khác nhau như thế nào? 
 

4) Người giáo dân có được quyền ban phép rửa tội cho một người lương lớn tuổi muốn theo đạo, hay cho một trẻ mới sinh sắp chết hay không và cách thức rửa tội như thế nào?
 

II. SỐNG LỜI CHÚA
 

1. LỜI CHÚA: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c 3).
 

2. CÂU CHUYỆN
 

1) CHÚA MUỐN THA TỘI LỖI CHO LOÀI NGƯỜI CHÚNG TA:
 

Vào một đêm lễ Giáng Sinh kia, Giê-rô-ni-mô đang cầu nguyện trong một hang đá ở trong rừng vắng và suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Đột nhiên Chúa Giêsu hiện ra hỏi ngài: “Giê-rô-ni-mô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày sinh nhật của Ta sắp tới không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa trái tim của con”. Chúa nói: “Còn gì khác nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể”. Chúa lại hỏi: “Còn điều gì khác nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con mới dịch sách Thánh Kinh xong, con xin dâng Chúa bản dịch là kết quả công lao vất vả của con”. Chúa nói: “Tốt lắm, con còn điều gì nữa không?”. Ngài thưa: “Lạy Chúa, con còn gì khác nữa đâu?”. Chúa bảo: “Còn sự yếu đuối và tội lỗi của con, con hãy dâng những thứ ấy cho Ta”. Giê-rô-ni-mô hốt hoảng thưa: “Lạy Chúa, làm sao con dám dâng những thứ xấu xa ấy cho Chúa?”. Chúa nói: “Được chứ, Ta muốn con dâng những cái đó cho Ta để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta mong đợi nơi con”.
 

Chúng ta cần có tâm hồn sám hối để xứng đáng được Chúa tha thứ. Chúa Giêsu chính là hiện thân của lòng tha thứ. Ngài đến trần gian để đón nhận tất cả tội lỗi của loài người. Bởi vậy, chẳng có gì quá đáng khi nói: Món quà Thiên Chúa mong đợi nhất nơi con người là hãy dâng các tội lỗi lên cho Chúa để được Người tha thứ và ban ơn cứu độ cho chúng ta.
 

2) SÁM HỐI – ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC CHÚA THA TỘI: 
 

Một hôm, vị Phó Vương xứ Naples là công tước d’ Osone khi mới lên nhậm chức, ông quyết định sẽ ân xá cho các tù nhân có biểu hiện sám hối thực sự. Ông đã đích thân đến thăm nhà ngục và xét hỏi từng người để sẽ ban lệnh ân xá cho họ. Khi được hỏi, hầu hết tù nhân đều kêu mình bị oan. Riêng chỉ có một người là sẵn sàng nhận tội,  và còn nói lẽ ra mình phải chịu mức án nặng hơn mới đáng với tội của mình. Thấy phạm nhân thành tâm nhận lỗi, vị công tước liền nói với anh như sau: ”Anh đã nhận mình là tội nhân đang khi nhiều người khác lại chối tội. Như vậy nhà tù này không hợp với anh, nên anh được ân xá và sẽ lập tức được trở về nhà”.
 

Một người phàm như công tước xứ Naples mà còn có lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho một tù nhân có lòng khiêm hạ sám hối, phương chi Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi thương xót lại không tha thứ lỗi lầm cho những hối nhân sám hối và quyết tâm cải tà quy chính hay sao ? Bởi vì nếu bản tính của loài người là kẻ yếu hèn và dễ phạm tội, thì Thiên Chúa lại là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (TV 103,8-10). 
 

3) CẦN THAY ĐỔI TỪ BẢN THÂN TRƯỚC:
 

Một vị thiền sư Ấn giáo tuổi cao niên đã phát biểu cảm nghĩ về cuộc đời của ông từ nhỏ tới lớn mà ông đã từng trải qua như sau:
 

- Lúc còn trẻ, tôi là một thiếu niên có những suy nghĩ táo bạo và đầy quyết tâm. Khi nhìn thấy thế giới chung quanh đầy tội lỗi gian ác, tôi đã mạnh dạn cầu nguyện với Thượng Đế như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con đủ khôn ngoan để biến đổi thế giới tội lỗi xấu xa này trở nên thánh thiện tốt đẹp hơn”.

- Rồi khi đến tuổi trưởng thành, tôi đã nghiệm ra rằng: Tôi đã trải qua nửa đời người rồi mà vẫn chưa biến đổi được ai nên tốt hơn. Lúc đó, tôi đã thay đổi lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa,  xin cho con đủ sức biến đổi mọi người trong gia đình và bè bạn của con nên tốt hơn. Và như vậy là con đã thỏa mãn rồi”.

- Nhưng giờ đây đến tuổi xế chiều, “răng nong tóc bạc”, khi ngày tháng đời tôi sắp kết thúc,  tôi mới nhận ra rằng: tôi thật khờ dại biết bao! Tôi đã chẳng làm được điều tốt nào cho ai cả. Bây giờ tôi chỉ còn biết khiêm tốn cầu nguyện với Chúa như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con đủ nghị lực để biến đổi chính bản thân con”… Giả như tôi đã sớm nhận biết và cầu nguyện như vậy ngay từ lúc còn trẻ, thì tôi đã không uổn phí bao nhiêu thời gian cách vô ích rồi”.
 

4) GƯƠNG SÁNG THUYẾT PHỤC HIỆU QUẢ HƠN LỜI NÓI: 
 

Vào thế kỷ 12, nhiều tệ đoan đã xảy ra trong nội bộ Hội thánh, nhiều bè phái đã nổi lên ở khắp nơi phê phán chỉ trích nếp sống xa hoa của nhiều chủ chăn. Lúc đó hai thánh Phan-xi-cô thành Át-si-si và thánh Đa-minh đã được Thiên Chúa sai đến với sứ mạng thức tỉnh và canh tân Hội thánh.  Các ngài đã không lớn tiếng phê phán mà ăn năn sám hối từ chính bản thân của mình. Các ngài không khoe khoang thành tích, không tham lam của cải địa vị, không sống đạo đức giả tạo… Tuy cả hai vị đều thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng các ngài đã từ bỏ tất cả địa vị danh vọng tiền của vật chất để chọn lối sống khó nghèo, hiền hòa và khiêm tốn phục vụ người nghèo noi gương Chúa Giê-su.... Thánh Đa-minh đã lập dòng “Anh em thuyết giáo” (OP), còn thánh Phan-xi-cô lập dòng “Anh em hèn mọn” (OFM). Các tu sĩ của hai dòng khổ tu này có nếp sống đơn giản: ăn mặc quần áo vải thô, ngày ngày đi chân đất qua các xóm làng khất thực và đến tối lo dạy giáo lý cho người lớn và trẻ em tại các nhà thờ bị bỏ hoang, tổ chức những tuần tĩnh tâm cho các tín hữu. Chẳng mấy chốc tiếng lành đồn xa, cuộc sống nghèo khó và đạo đức của các ngài đã được nhiều vị chủ chăn và các tín hữu nhận biết nể phục. Nhiều tội nhân và người theo lạc giáo đã được ơn Chúa hồi tâm sám hối trở về với Hội thánh Công giáo. Nhờ sự quyết tâm canh tân vừa bằng lời giảng kèm theo gương sáng của các ngài và các tu sĩ nam nữ trong dòng mà con thuyền Hội Thánh đã vượt qua các cơn phong ba bão táp có nguy cơ bị chìm đắm. 
 

5) PHẢI CHIẾN ĐẤU VỚI NHỮNG ĐỐI TƯỢNG NÀO?
 

Vào một buổi chiều kia, cha bề trên đã hỏi một tu sĩ trong dòng được tiếng là người đạo đức: « Hôm nay con đã làm gì? » Tu sĩ liền trả lời: “Thưa cha, cũng như mọi ngày, hôm nay con rất bận làm việc mà nếu không có ơn Chúa, con sẽ không thể chu toàn. Đó là mỗi ngày con đều phải canh chừng hai con chim ưng, giữ hai con nai, kìm hãm hai con diều hâu, giữ một con sấu, trị một con gấu và quan tâm săn sóc cho một bệnh nhân”.
 

Bề trên cười hỏi lại : « Con nói gì thế? Trong dòng chúng ta đâu có những con thú dữ như con vừa nói ? ». Tu sĩ trả lời : « Thưa cha thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con mà con phải giữ để chúng khỏi nhìn những vật cấm kỵ. Hai con nai tức là hai chân mà con phải trông coi để chúng không đi vào con đường xấu. Hai chim diều hâu là hai bàn tay mà con phải bắt nó làm những việc có ích. Còn con cá sấu là cái lưỡi mà con phải kìm hãm để khỏi nói ra những điều lỗi bác ái. Con gấu chính là trái tim mà con phải canh chừng để khỏi ích kỷ và tự cao tự đại. Còn bệnh nhân là chính thân xác của con mà con cần luôn đề phòng để cho nhục dục khỏi vùng lên.

 

Ngày xưa Gio-an Bao-ti-xi-ta đã sống như thế để dọn đường đón Đấng Thiên Sai. Nếu mỗi người chúng ta cũng biết sống như vậy trong Mùa Vọng này, chúng ta sẽ biến tâm hồn mình trở thành con đường đón Chúa đến thăm vào lễ Giáng Sinh sắp tới. 

 

3. SUY NIỆM:
 

Tin Mừng Chúa Nhật 2 Mùa Vọng hôm nay thuật lại việc Gioan Tẩy Giả thi hành sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường cho mọi người đón Đấng Thiên Sai. Noi gương ngôn sứ I-sai-a xưa, Gio-an đã đến sông Gióc-đan rao giảng như sau: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mc 1,5). Ông cũng làm phép rửa dìm mình trong nước sông Gióc-đan cho những ai thành tâm sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai sắp đến.
 

1) SỨ MẠNG DỌN ĐƯỜNG CỦA GIO-AN TẨY GIẢ:
 

Thiên Chúa đã gọi Gio-an là con của tư tế Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét làm ngôn sứ và trao sứ mạng đi trước dọn đường cho người ta đón Ðấng Thiên Sai sắp đến. Gio-an đã thi hành sứ mạng bằng một cuộc sống khổ hạnh: mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông đã từ bỏ mọi tiện nghi vật chất để nêu gương sống siêu thoát hầu thi hành sứ mạng tiền hô cho Đấng Thiên Sai. Gio-an rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước. Còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8). Qua đó, Gio-an xác nhận rõ vai trò sứ giả của ông. Ông chỉ là người đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Ông đã nói với mọi người rằng: Tôi không phải là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ là tiếng kêu trong hoang địa để mọi người dọn đường đón Người đến. Người cao trọng hơn tôi và là Đấng mà dân chúng đang trông đợi. Gio-an đã xác nhận vai trò tiền hô của mình: “Đấng đến sau tôi thì cao trọng hơn tôi!” Ông đã thực hiện sứ mạng đúng như lời tuyên sấm của ngôn sứ Ma-la-ki-a và I-sai-a như sau: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1) và “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Is 40,3).
 

2) GIO-AN ĐÃ THI HÀNH SỨ MỆNH BẰNG LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM:
 

Gio-an Tẩy Giả đã nêu bốn phương thế giúp don đường đón Chúa đến:
 

- Một là vào sa mạc: Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. 
 

- Hai là hồi tâm sám hối: Ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép Rửa cho họ trong sông Gio-đan (Mc 1,4-5).
 

- Ba là sống đơn sơ trong cách ăn mặc và khổ chế: Ông Gio-an ‘mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” (Mc 1,6). 
 

- Bốn là ăn ở khiêm tốn và phục vụ tha nhân: Gio-an tiên báo về Đấng Thiên Sai: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau. Tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép Rửa cho anh em nhờ nước. Còn Người, Người sẽ làm phép Rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,7-8). 
 

3) MỖI NGƯỜI CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ CỤ THỂ TRONG NHỮNG NGÀY NÀY?
 

Sau khi được xem gương sáng và nghe lời Gio-an giảng, đám đông dân chúng đã hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?”. Gio-an đã trả lời cho dân Do Thái và cũng cũng cho chúng ta hôm nay như sau: 
 

- Hãy vào nơi thanh vắng: Mỗi ngày hãy dành ra ít phút khi vừa thức dậy để dâng ngày mới cho Chúa; Buổi tối hãy xét mình ăn năn sám hối trước khi nghỉ đêm; Trong ngày hãy đến nhà thờ dự lễ và tham dự các buổi Tĩnh Tâm Mùa Vọng tại nhà thờ...
 

- Hãy làm cho Chúa được lớn lên: Trước khi làm một việc gì, hãy tự hỏi mình: Tôi làm việc này để tôn vinh danh Chúa và vì phần rỗi các linh hồn, hay để tìm tiếng khen?
 

- Hãy chọn lối sống đơn giản: Trong mùa Vọng này, hãy không mua sắm thêm quần áo giày dép nếu không thực sự cần thiết; Không hoang phí trong việc tổ chức ăn uống… để học sống đơn giản noi gương Gio-an và Chúa Giê-su (x. Mt 8,20). 
 

- Hãy sống công minh chính trực: Những người làm nghề buôn bán cần nói năng lễ độ thật thà và ân cần tế nhị khi tiếp xúc với khách hàng. Tránh khoe khoang về mình nhưng hãy khen ngợi và thực lòng đề cao người khác lên. 
 

- Hãy quảng đại chia sẻ niềm vui và tình thương của Chúa: Gửi thiệp Noel cho bạn bè và người thân để nói lên thái độ quan tâm và đi bước trước đến với mọi người; Đóng vai ông già Noel để đi thăm viếng phát quà các trẻ em đường phố hay các mái ấm nuôi trẻ mồ côi, các trại nuôi người khiếm thị hay khuyết tật, các người già liệt giường, thăm bệnh nhân nghèo tại bệnh viện... 
 

4. THẢO LUẬN: 1) Đến ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ tái lâm để biến đổi trần gian nên “Trời Mới Đất Mới”. Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta phải cộng tác với Chúa để biến gia đình mình ngày một an vui hạnh phúc hơn, khu xóm mình ngày một an toàn sạch đẹp hơn, đất nước mình ngày một văn minh, an bình và thịnh vượng hơn? 2) Ta cần dọn lòng đón chúa đến với mình thế nào trong những ngày này?
 

5. NGUYỆN CẦU: 
 

- LẠY CHÚA CHA, Đấng giàu lòng từ bi nhân hậu. Xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn tiếp đón Đấng Ki-tô sẽ đến: Đến riêng trong giờ chết của mỗi người chúng con và đến chung trong ngày tận thế của toàn thể nhân loại. Xin thanh tẩy lương tâm chúng con sạch mọi điều xấu xa gian ác. Xin loại ra khỏi con người chúng con thái độ ích kỷ tự mãn, hận thù ganh ghét và mọi thứ đam mê bất chính khác, để chúng con xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.
 

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Mùa Vọng này, xin cho chúng con biết siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, để qua đó, chúng con sẽ “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến”. Chúa sẽ đến thăm chúng con trong lễ Giáng Sinh, và sẽ lại đến trong giờ chết của mỗi người chúng con cũng như trong ngày tận thế của toàn nhân loại. Xin cho chúng con biết dọn lòng đón Chúa mỗi ngày đến bằng việc sám hối, loại bỏ các thói hư, mỗi ngày làm ít là một việc bác ái cho tha nhân kèm theo một lời nguyện tắt… Nhờ đó chúng con sẽ góp phần thi hành sứ mạng đem Chúa đến cho mọi người như lời chúc mừng Giáng Sinh: “Chúc mừng một mùa Giáng Sinh vui tươi và hạnh phúc”.
 

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Tag:

2020-12-06