Is 43,16-21 ; Pl 3,8-14 ; Ga 8,1-11
TÌNH THƯƠNG THA THỨ VÀ BIẾN ĐỔI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 8,1-11
(1) Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. (2) Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. (3) Lúc đó, các Kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, (4) rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. (5) Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? (6) Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. (7) Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. (8) Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. (9) Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su và người phụ nữ thì đứng ở giữa. (10) Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đi đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” (11) Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả”. Đức Giê-su nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
2. Ý CHÍNH: Tin mừng hôm nay trình bày tình thương bao dung của Thiên Chúa, thể hiện qua thái độ của Đức Giê-su đối với một phụ nữ phạm tội ngọai tình. Câu chuyện được trình bày như một màn kịch gồm 3 hồi như sau:
- Hồi một (x Ga 8,1-5): Để có cớ tố cáo Đức Giê-su, các Kinh sư và người Pha-ri-sêu đã giải một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến yêu cầu Người xử lý.
- Hồi hai (x Ga 8,6-9): Hiểu được ý đồ của họ, Đức Giê-su im lặng ngồi xuống và lấy ngón tay viết trên đất. Khi họ gặng hỏi thì Người mới nói: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá ném trước đi”. Câu trả lời của Đức Giê-su đã làm cho những kẻ tố cáo tội nhân phải âm thầm rút lui.
- Hồi ba (x Ga 8,10-11): Chỉ còn lại mình Đức Giê-su là người duy nhất trong sạch và có quyền kết án tội nhân. Nhưng Người lại tỏ lòng khoan dung với kẻ có tội khi tuyên bố: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Đến núi Ô-liu: Núi Ô-liu còn được gọi là vườn Ghết-sê-ma-ni, nằm về phía Đông gần thành Giê-ru-sa-lem, (x. Lc 22,39). Đây là một nơi yên tĩnh thuận tiện cho việc cầu nguyện. + Trở lại Đền thờ: Đền thờ nằm trong Thủ đô Giê-ru-sa-lem. Đền thờ đầu tiên do vua Sa-lo-mon xây dựng vào năm 970 trước Công nguyên. Sau đó nhiều lần được tái thiết. Đền thờ được đề cập trong Tin mừng hôm nay do vua Hê-rô-đê trùng tu và mở rộng thêm từ năm 20 trước CN, nhưng sau đó đã bị quân Rô-ma tàn phá bình địa vào năm 70 sau Công nguyên. + Người ngồi xuống giảng dạy họ: Các Thầy “ráp-bi” Do thái khi dạy Thánh kinh, thường ngồi trên một chiếc ghế hay một tảng đá, còn các thính giả thì đứng ngồi xung quanh. + Một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình: Đây là một thiếu phụ đã có chồng, nhưng đã quan hệ bất chính với một người khác không phải chồng mình.
- C 4-6a: + Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền phải ném đá hạng đàn bà đó: Luật Mô-sê quy định về hình phạt dành cho tội ngoại tình như sau: “Người đàn bà ngoại tình phải bị xử tử” (Lv 20,10). Luật cũng quy định xử tử cả hai kẻ phạm tội bằng hình phạt ném đá (x. Đnl 22,24). Nhưng thời Đức Giê-su, người Rô-ma đã cấm dân Do thái áp dụng luật này (x Ga 18,31). + Họ nhằm thử Người để có bằng cớ tố cáo Người: Các Kinh sư và người Pha-ri-sêu muốn đưa Đức Giê-su vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” để có cớ tố cáo Người. Theo họ nghĩ: Đức Giê-su trả lời đàng nào cũng không ổn: Nếu Người truyền kết án tử hình theo Luật Mô-sê thì họ sẽ tố Người chống lại nhà cầm quyền Rô-ma, vì người Do thái đã bị tước quyền xử tử tội nhân, và Người sẽ bị chính quyền Rô-ma coi là phản lọan. Còn nếu Người truyền tha bổng tội nhân, thì họ sẽ lại nói Người chống lại Luật pháp Mô-sê và truyền thống của cha ông.
- C 6b-8: + Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay vẽ trên đất: Viết trên đất là để bày tỏ thái độ không quan tâm đến sự việc đang xảy ra. + “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”: Qua câu nói này, Đức Giê-su tuy theo Luật Mô-sê để cho phép ném đá tội nhân, nhưng Người cũng nhắc cho những kẻ tố cáo kia biết rằng: Chính họ cũng là kẻ tội lỗi đáng bị xử phạt! Họ cần tránh thái độ xét đoán ý trái và kết án kẻ khác cách bất công, để khỏi bị Thiên Chúa xét đóan và kết án sau này. Vì dưới cái nhìn của Thiên Chúa, thì mọi người đều là tội nhân và đều cần được xét xử khoan dung (x. Lc 6,36-38).
- C 9-11: + Họ bỏ đi hết: Tất cả những kẻ tố cáo đều rút lui. + Bắt đầu từ người lớn tuổi: Người lớn tuổi bỏ đi trước, phần vì càng sống lâu thì càng nhiều sai phạm! Phần khác cũng có thể do các người lớn tuổi khôn ngoan hơn, nên khi thấy không làm gì được Đức Giê-su thì áp dụng nguyên tắc “Tam thập lục kế: đào vi thượng sách!” để tránh khỏi bị liệt vào hạng “đạo đức giả” (x. Lc 11,37-54). + “Tôi không lên án chị đâu!”: Đức Giê-su không xét đoán ai vì Ngừơi đầy lòng từ ái khoan dung (x Ga 8,15). Sứ vụ của Người là đến để cứu độ thế gian (x Lc 9,10). + “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”: Tuy tha thứ cho tội nhân, nhưng để tránh lạm dụng, Đức Giê-su cũng đòi hối nhân phải thành tâm sám hối, bằng việc quyết tâm không tái phạm nữa. Trong thực tế, để tránh khỏi tái phạm tội thì hối nhân cần ăn năn dốc lòng chừa. Lòng ăn năn sám hối thực sự được biểu lộ qua việc khiêm tốn xin ơn Chúa trợ giúp, thành thật xưng thú tội lỗi, quyết tâm xa lánh dịp tội và làm việc đền tội cân xứng (x. Kinh Ăn năn tội).
4. CÂU HỎI:
1) Hãy cho biết Đền thờ Giê-ru-sa-lem thời Chúa Giê-su do ai xây dựng và xây từ khi nào ? Số phận cuối cùng của Đền thờ này ra sao ? 2) Luật Mô-sê qui định hình phạt dành cho các kẻ phạm tội ngọai tình là gì ? 3) Các đầu mục Do thái có ý đồ gì khi bắt người đàn bà phạm tội ngọai tình đến yêu cầu Đức Giê-su xử lý ? 4) Đức Giê-su thể hiện lòng khoan dung đối với tội nhân qua câu nói nào ? 5) Lòng ăn năn thực sự phải được biểu lộ bằng những việc gì ? 6) Phải chăng khi tha thứ cho tội nhân là Đức Giê-su đã gián tiếp khuyến khích họ tiếp tục phạm tội ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ CÂY THÁNH GIÁ KHOAN DUNG.
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh Giá rất đặc biệt: Trên cây thập giá, Chúa Giê-su chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai bàn chân, còn tay phải đã rời khỏi thập giá và giơ ra phía trước như đang ban phép lành cho hối nhân tại tòa giải tội bên dưới.
Chuyện kể rằng: Một lần kia, khi một linh mục đang ngồi tòa thì một tội nhận vào xưng tội. Vị linh mục ngồi tòa nổi tiếng là nghiêm khắc đối với những tội nhân không chịu chừa cải. Anh chàng vào tòa xưng tội lần này đã nhiều lần phạm tội ngoại tình và cha giải tội cũng nhiều lần ngăm đe. Nhưng chứng nào tật đó, cứ ra khỏi tòa giải tội được ít ngày, anh ta lại tiếp tục sa ngã phạm tội ngoại tình mới xưng. Sau nhiều lần tha thứ, cuối cùng trong lần xưng tội mới đây cha giải tội đã phải nói với anh: “Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Chàng thanh niên ra khỏi tòa giải tội trong tâm trạng nặn trĩu u buồn. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội và lần này anh ta lại vẫn xưng tội ngoại tình như mấy lần trước. Nhưng lần này vị linh mục đã từ chối giải tội cho anh và nói: “Anh đừng có đùa với Chúa! Lần này ta không tha tội cho anh nữa”. Nhưng một điều kỳ diệu đã xảy ra: Cha giải tội và hối nhân trong tòa đều nghe thấy có tiếng của Chúa Giê-su phán ra từ trên cây thập giá phía trên tòa giải tội rằng: “Nhưng Ta tha tội cho hối nhân này!”. Rồi Chúa còn nói riêng với vị linh mục: “Chính Ta mới chịu đổ máu để rửa sạch tội lỗi của loài người chứ không phải con đâu!”
Cũng từ ngày đó, người ta thấy trên cây thánh giá tại tòa giải tội trong nhà thờ nói trên, cánh tay phải của Chúa Giê-su không còn gắn vào cây thập giá, nhưng bị bung ra trong tư thế đang cúi xuống ban phép lành cho hối nhân trong tòa giải tội, như một lời mời gọi tội nhân hãy tin cậy vào lòng từ bi thương xót của Chúa.
2) ĐƯỢC ƠN HOÁN CẢI THỰC SỰ NHỜ PHÉP GIẢI TỘI.
TA-XI-A-NA là một văn sĩ người Mỹ gốc Liên Xô. Vào năm 1980, cô đã cho ra đời tác phẩm đầu tay tựa đề là “Về một cuộc đổi đời kỳ diệu”. Trong quyển sách đó, cô đã kể lại chi tiết cuộc đời đầy đam mê sóng gió của cô, mà cuối cùng đời cô đã được ơn biến đổi nên tốt hơn gấp bội! Câu chuyện của cô Ta-xi-a-na được tóm gọn như sau:
Ngay từ khi còn bé, Ta-xi-a-na đã được chịu phép rửa tội. Nhưng khi lớn lên, cô ít đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật vì cha mẹ của cô không mấy ngoan đạo. Do cứng đầu và hay gây gỗ nên cha mẹ và thầy dạy đều xếp cô vào loại trẻ khó dạy. Ngay từ nhỏ, Ta-xi-a-na đã tỏ ra căm thù tất cả những gì mang tính gò bó, ép cô vào trong khuôn khổ kỷ luật, vì nó làm cho cô cảm thấy mất tự do và không thể làm theo ý của mình. Lớn lên, nhờ có trí thông minh siêu hạng, Ta-xi-a-na đã được cấp học bổng lên đại học. Nhưng tại môi trường trí thức này, thay vì kết thân với các sinh viên cùng khóa, thì cô lại thường xuyên giao du với đám ma cô, đầu trộm đuôi cướp, bợm nhậu, đĩ điếm và xã hội đen...! Trong khi sống buông thả như vậy, cô cũng thích nghiên cứu các môn thần bí phương Đông, đặc biệt là môn Yô-ga. Khi tập luyện Yô-ga, mỗi động tác đều đòi người ta phải đọc một câu trong một bài văn vần của môn phái. Có người biết cô là tín hữu nên đã đề nghị cô đọc Kinh Lạy Cha thay cho bài văn vần kia. Ta-xi-a-na đã làm theo lời khuyên này. Các câu trong kinh Lạy Cha đã dần dần thấm nhập vào tâm hồn cô. Rồi một ngày kia, một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu Ta-xi-a-na: “Tại sao ta lại không đọc thêm các bản kinh khác nữa, nhất là đọc Lời Chúa trong Thánh kinh?” Càng đọc Lời Chúa, cô càng cảm thấy thích thú về những tư tưởng cao siêu và thánh thiện của Đức Giê-su. Cuối cùng cô quyết định đến với một linh mục đạo đức để tìm hiểu thêm về giáo lý Thánh kinh. Sau đó cô đã cử hành lễ nghi tuyên tín. Cô dọn mình chịu bí tích giải tội và đã được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ đây cô tình nguyện hiến thân phục vụ các công việc bác ái xã hội. Về sau cô đã thuật lại phép lạ đổi mới đã xảy ra với cô trong lúc cô đang xưng tội như sau: “Bấy giờ tôi lần lượt kể lại cho vị linh mục nghe các lỗi lầm tôi đã phạm, về những cơn say thâu đêm suốt sáng, các đam mê tình dục quá độ, về những cuộc hôn nhân bất hạnh mà tôi đã từng trải, những lần phải đi phá thai vì bị vỡ kế hoạch dẫn đến hậu quả tai hại là tôi bị mất khả năng sinh sản. Cuộc sống đầy đam mê đã biến tôi trở thành một con người dửng dưng với mọi sự: Tôi chẳng còn có thể yêu ai được nữa!” Sau khi thú tội xong, tôi lắng nghe vị linh mục khuyên bảo. Lời của ngài tuy đơn sơ nhưng mỗi lời đều đánh động tận tâm can tôi. Sau cùng tôi rất xúc động khi đón nhận phép giải tội. Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản như vừa trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân”.
Sau lần xưng tội ấy, Ta-xi-a-na đã cảm nghiệm gặp được chính Chúa Giê-su và được Người tha thứ hết mọi lỗi lầm quá khứ. Ta-xi-a-na không những đã được tha tội, mà còn được Chúa chạm đến phần tâm linh sâu thẳm nhất để biến cô thành một tạo vật hòan tòan mới của Người.
3. CHUYỆN TÌNH TRÊN NON CAO.
Một quyển sách tựa đề "Tình trên non cao" kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống với nhau trên một ngọn núi cao, rất hạnh phúc. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ hô to giữa trời lồng lộng "Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá!" Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi mà hạnh phúc. Người chồng thỉnh thoảng cũng phải xuống núi để làm ăn. Trong một chuyến xuống núi, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một người đàn bà khác. Người vợ biết được, rất giận, từ đó không nói chuyện với chồng nữa. Phần người chồng thì cũng hối hận nhưng không thể nào xin lỗi được vì mỗi lần muốn nói lời xin lỗi với vợ thì vợ lại bỏ đi nơi khác. Một đêm kia người chồng trên đường lên núi về nhà thì gặp bão tuyết, chiếc xe ngựa bị gãy, con ngựa bị què, còn anh thì bị thương nặng ở chân. Nhưng anh vẫn cố lết về đến nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng bò lết tới cửa, nhưng chị nhất định không chịu ra mở cửa. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã cứng đờ ngay trước mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế, chỉ vì người vợ thiếu lòng khoan dung thương xót, không cho chồng mình một cơ hội để quay trở về.
Cuộc đời con người chúng ta thật không đơn giản mà tốt xấu trắng đen lẫn lộn: có khi tốt như thiên thần, có lúc lại xấu như ác quỷ. Tâm hồn có phần sáng phần tối, dù đã lỡ phạm tội nhưng vẫn muốn được nên tốt. Do đó khi sống chung mỗi người cần có lòng thương xót để giúp kẻ trót lầm đường lạc lối có cơ hội quay đầu trở về.
4. KHÔNG AI HOÀN TOÀN VÔ TỘI.
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua xét xử. Nhà vua liền ra lệnh treo cổ tên này đúng theo lề luật. Khi bị áp giải đến giá treo cổ, tên trộm nói với viên quan cai ngục rằng anh ta có một điều bí mật do cha anh dạy, là anh có thể gieo trồng hạt giống cây lựu, khiến nó mọc lên và trổ sinh hoa trái chỉ trong thời gian một đêm. Và sẽ thật đáng tiếc, nếu điều bí mật này bị mất đi theo với cái chết của anh. Anh muốn nói ra bí quyết này nhưng chỉ với một mình nhà vua mà thôi.
Viên cai ngục rất phân vân nên thay vì thi hành án, đã giải tên tử tội đến trước mặt vua. Tại đây, tên trộm xin đào một cái lỗ trên mặt đất, rồi anh ta lấy ra một hạt giống cây lựu và nói :
- Tâu Đức Vua, hạt giống này chỉ đạt kết quả kỳ diệu nếu do một người chưa từng ăn cắp trồng. Vì là một tên trộm cắp, nên thảo dân không thể trồng nó được.
Thế rồi anh ta quay sang viên quan đứng gần bên vua và nói :
- Ngài có thể trồng hạt giống này được không ạ ?
Nhưng viên quan này vội xua tay từ chối và nói:
- Khi còn trẻ, tôi đã có lấy một vài đồ vật của bạn bè.
Sau đó, tên trộm lại quay sang viên quan thủ kho của nhà vua và nói :
- Ngài là thủ kho công minh liêm chính. Vậy chắc ngài có thể trồng hạt giống này chứ ?
Nhưng viên quan giữ kho tàng hoàng cung cũng từ chối :
- Cách đây nhiều năm, tôi cũng có lần đã lấy tiền trong kho làm của riêng mình.
Và cứ như thế, hết người này đến người khác… Cuối cùng chỉ còn lại mình nhà vua. Quay sang nhà vua, tên trộm nói :
- Có lẽ bệ hạ sẽ sẵn sàng trồng hạt giống này ?
Nhưng nhà vua nói :
- Ta phải xấu hổ mà nói rằng: Ta đã có một lần lấy một chiếc đồng hồ của cha ta.
Bấy giờ tên trộm tử tội nói :
- Tất cả các ngài đều là những người có địa vị và quyền lực, không thiếu bất cứ thứ gì. Thế mà không ai trong các ngài trong sạch đủ để trồng được hạt giống này. Còn tôi chỉ phạm tội lấy trộm ít tiền của người đi chợ để mua đồ ăn cho khỏi chết đói, mà tôi lại phải treo cổ sao ?
Cuối cùng nhà vua đành phải tha bổng anh ta vì quả thật không ai hoàn toàn vô tội !
III. THẢO LUẬN:
Bạn sẽ trả lời ra sao khi có người nói: “Cần chi phải đi xưng tội với ông linh mục cũng là tội nhân giống như mình? Hoặc xưng tội là làm điều vô ích, vì chỉ sau một thời gian ngắn người ta sẽ lại tái phạm? Sao không đợi đến lúc sắp chết phải nằm liệt giường, bấy giờ sẽ xưng tội cũng đủ?”
IV. SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng hôm nay: thuật lại câu chuyện Đức Giê-su đã bênh vực và tha tội cho một phụ nữ ngoại tình. Khi cúi xuống vẽ trên đất, có thể Đức Giê-su đã viết tội của các đầu mục Do thái hay đang tìm câu trả lời thì không ai dám khẳng định. Nhưng các đầu mục Do thái tưởng đã bắt bí được Đức Giê-su nên cứ gặng hỏi mãi. Bấy giờ Người đã trả lời họ rằng: "Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi" (Ga 8,7).
Quả thật, không một ai dám cầm đá ném đầu tiên vì đã nhận biết mình cũng có nhiều tội lỗi và từng người âm thần bỏ đi. Chỉ có Đấng vô tội là Đức Giê-su thì lại không lên án khi nói với chị phụ nữ: "Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!" (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, là những người tội lỗi. Chúa không đe phạt nhưng khích lệ, tin tưởng và hy vọng tội nhân hồi tâm sám hối. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng luôn nâng đỡ các tội nhân và muốn họ ăn năn sám hối để được sống.
2) Một số suy nghĩ lệch lạc của con người ngày nay về bí tích giải tội:
Ngày nay một số khá đông các tín hữu không muốn đi xưng tội dựa vào các lẽ như sau:
* Do gương xấu của một số vị chủ chăn: Những người này cho rằng các vị chủ chăn cũng chỉ là những con người bằng xương bằng thịt yếu đuối và bất tòan nên không xứng đáng để tha tội cho họ.
Tuy nhiên, chính Đức Giê-su đã không nghĩ như vậy khi trao quyền tha tội cho các tông đồ vào buổi chiều ngày sống lại, dù lúc đó các ông đang là những người bất toàn. Người trao quyền “cầm buộc và tháo cởi” cho cá nhân các ông không với tư cách đại diện cho Chúa Giê-su. Tương tự như các quan tòa tuyên án cho các phạm nhân nhân danh luật pháp. Hơn nữa, các tông đồ chỉ được trao quyền tha tội sau khi nhận được Thần Khí của Chúa Phục Sinh như Tin Mừng đã ghi nhận: “Nói xong, Chúa Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
* Do hiểu chưa đúng về hiệu quả của bí tích giải tội: Có người nói: “Tôi thường đi xưng tội vào mỗi đầu tháng và lần nào tôi cũng chỉ xưng thú một số tội đã xưng đi xưng lại nhiều lần trước đó, mà tôi vẫn không sao chừa bỏ được. Do đó xưng tội là một việc làm thiếu hiệu quả nếu không muốn nói là vô ích.
Để nhìn rõ vấn đề, chúng ta hãy so sánh sức khỏe tâm linh với sức khỏe thể xác của chúng ta: Do di truyền, có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng mang một số bệnh nan y như: Cao huyết áp cần phải uống thuốc hằng ngày, dị ứng nổi mề đay, bệnh “gút” gây đau nhức cần phải uống thuốc giảm đau... Mỗi khi căn bệnh tái phát, chúng ta phải đến bác sĩ chuyên khoa điều trị và dùng một số loại thuốc giống nhau… Nhưng đâu có ai từ chối uống thuốc với lý do rồi bệnh sẽ tái lại ? Nếu ta không đi khám bệnh và không uống các thứ thuốc trị bệnh quen thuộc nói trên mới là sai lầm. Ngoài ra mỗi ngày chúng ta đều phải tắm rửa, dù biết rằng đến mai cơ thể sẽ lại bị dơ cần phải tắm lại… Về phạm vi tâm linh cũng vậy: Ai trong chúng ta cũng có một số thói hư rất khó chừa như: Dễ nổi nóng, hay nói xấu kẻ mình không ưa, ích kỷ và tự ái cao, lười biếng làm việc đạo đức, uống rượu say sỉn, xem phim ảnh xấu rồi thủ dâm... Dù đã nhiều lần quyết tâm chừa nhưng rồi vẫn cứ tái phạm… Chúng ta cần phải xưng thú các tội ấy để nhận được ơn tha thứ của Chúa. Hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ từng bước chừa bỏ thói hư để ngày một nên hoàn thiện hơn.
* Do cách xét mình cẩu thả trước khi xưng tội: Có người chữa mình rằng: “Tôi đã xét mình mãi mà chẳng tìm ra tội gì mới để xưng. Nhiều khi tôi phải xưng lại một “tội trọng cũ” để có tội mà xưng. Việc không tìm ra tội nào mới không chứng minh chúng ta đã nên hoàn thiện. Vì có thể do chúng ta đã bị chai lỳ về mặt tâm linh, khi cho các việc sai trái là không có tội. Thực ra mọi người chúng ta đều phạm tội do sự yếu hèn của mình, như thánh Phao-lô đã phải thú nhận: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Những ai tưởng mình không có tội, thực ra có thể do đã xét mình cẩu thả và tự đánh lừa mình, như thánh Gio-an đã viết: “Nếu chúng ta nói mình không có tội, là chúng ta đã tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8).
* Do chưa ý thức về tầm quan trọng của những điều thiếu sót: Trong kinh cáo mình có câu: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Tội chúng ta phạm có thể là tội cố tình vi phạm một điều luật cấm như dối trá, trộm cắp, ngọai tình, phá thai... hay tội bỏ không làm việc lẽ ra phải làm như: Bất hiếu với cha mẹ, làm ngơ trước người đau khổ cần trợ giúp… Trong Tin mừng, Đức Giê-su đã đề cập đến tội thiếu sót này như trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó. Ông ta đã làm ngơ không chịu giúp đỡ La-da-rô, một người nghèo khổ đang nằm trước cổng nhà ông ta (x Lc 16,19-31). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giê-su cũng sẽ tuyên phạt những kẻ đã bỏ các việc lành lẽ ra phải làm như sau: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ các ngươi chẳng đón tiếp; Ta mình trần các ngươi không cho đồ mặc; Ta ở tù các ngươi đã không viếng thăm ...” (Mt 25,41-45).
Những tội thiếu sót này tưởng là tội nhẹ mà thực ra cũng có thể trở thành tội nặng nếu do thiếu tình thương mà ta gây thiệt hại nặng cho người cần được giúp. Chẳng hạn không cứu giúp một người sắp chết đuối, không mang đi cấp cứu người bị đột quỵ… Tội làm ngơ này đồng nghĩa với giết người như thánh Gio-an viết: “Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở trong nó” (1 Ga 3,14b-15).
3) Phải sám hối cụ thể trong Mùa Chay thế nào? :
- Ngoài việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, mỗi người chúng ta cần dọn mình xưng tội. Điều quan trọng là phải tìm ra mối tội đầu của mình để chừa cải bằng việc tập các nhân đức đối lập với thói xấu như sau:
- Đối với bản thân mỗi người: Mỗi ngày cần dành ít phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình, để ý thức về sự yếu đuối bất toàn của mình. Hãy dọn mình xưng tội mỗi đầu tháng để thánh hóa bản thân. Hãy bỏ đi những đố kỵ ganh ghét, bỏ qua những lời xúc phạm của kẻ khác…
- Đối với người thân trong gia đình: Một trong những lý do chính đưa đến đổ vỡ hạnh phúc và ly hôn nơi các đôi vợ chồng trẻ hiện nay là không chịu bỏ qua lỗi lầm cho nhau. Đôi vợ chồng nên nhất trí: Mỗi khi có điều chi bất bình tranh cãi nhau thì cả hai đều phải đi bước trước làm hòa như lời thánh Phao-lô: “Anh em đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng! (Ep 4,26-27). Sau cơn giận, mỗi người hãy lập tức dâng một lời cầu xin Chúa giúp và ai chủ động bắt chuyện trước mới là người chiến thắng, vì đã thắng được tính tự ái của mình.
- Đối với tha nhân ngoài xã hội: Điều chúng ta cần làm ngay trong Mùa Chay này là: Mỗi ngày hãy xét mình để biết có ai đó đang bất hòa với mình và quyết tâm làm hòa với họ. Mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, cần lưu ý câu: “Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Mỗi ngày hãy đọc lời Chúa về sự tha thứ. Hãy suy nghĩ lời ông chủ phán trong dụ ngôn hai con nợ: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" (Mt 18,32-33).
V. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm một tội nào đó nghiêm trọng. Nhưng lạy Chúa, có tội nào chúng con phạm mà Chúa lại chẳng thấy và không hay biết? Xin cho chúng con biết bỏ đi những mặt nạ giả dối, những việc đạo đức hình thức bề ngòai nhằm che đậy những tội ác trong tâm hồn. Nhờ đó, chúng con sẽ luôn sống tình yêu thương và trở nên chứng nhân tình thương của Chúa trước mặt người đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON