Xh 34,4b-6.8-9 ; 2 Cr 13,11-13 ; Ga 3,16-18
YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT NOI GƯƠNG CHÚA BA NGÔI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 3,16-18
(16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con Một của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án, nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng lễ Chúa Ba Ngôi trích trong cuộc đàm thoại ban đêm giữa Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô về ơn cứu độ. Sau khi cho ông biết điều kiện để được cứu độ là phải tái sinh bởi nước và Thánh Thần, Đức Giê-su đã mặc khải về tình yêu của Thiên Chúa: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để chịu chết đền tội thay cho thế gian (14-16). Ai tin vào Người Con ấy thì sẽ được cứu độ (17-18).
3. CHÚ THÍCH:
- C 16: + Thiên Chúa đã yêu: Đây là một chân lý mặc khải mới mẻ, vì truyền thống Do thái trước đó chỉ nói đến Thiên Chúa yêu thương Ít-ra-en là con dân của Người, chứ không nói đến việc Người còn yêu cả thế gian, không phân biệt chủng tộc, quốc gia, màu da hay tiếng nói nữa. + Thế gian: chỉ chung toàn thể vũ trụ mà nhân loại là thành phần quan trọng nhất. Thế gian trong câu này ám chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương (x. Ga 3,16), nhưng ở câu khác lại ám chỉ bọn đầu mục dân Do thái là những kẻ thù ghét Đức Giê-su (x. Ga 12,31; 1 Ga 2,16-17). + Con Một của Người: Trong kinh tin kính, Giáo Hội dạy các tín hữu tuyên xưng đức tin “tôi tin kính Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Đức Chúa Cha… được sinh ra từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha (x. 2 Sm 7,12-16; Mt 3,13-17). Như vậy Đức Giê-su có hai bản tính là tính Thiên Chúa và tính loài người, nhưng Người chỉ có một Ngôi Vị là Ngôi Con hay Ngôi Lời. Việc ban Con Một để cứu độ thế gian là dấu chứng rõ ràng nhất biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Thiên Chúa đối với thế gian (x. 1 Ga 4,9-10). + Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết: Niềm tin vào Ngôi Con là điều kiện cần để được ơn cứu độ và được sống muôn đời.
- C 17: + Không phải để lên án thế gian: Sứ mệnh của Con Thiên Chúa đến thế gian không phải để kết án nhưng để cứu chuộc thế gian (x. 1 Ga 4,14). + Tại sao nơi khác Đức Giê-su lại phán: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử, cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39) ?: Thực ra điều Thiên Chúa muốn là sai Con Một đến để ban ơn cứu độ cho thế gian. Nhưng thế gian có nhận được ơn cứu độ đó hay không tùy theo thái độ đáp trả của họ là tin nhận hay từ chối Người. Chính do sự lựa chọn này mà thế gian sẽ được xét xử: Tin nhận Chúa Giê-su thì được cứu, nghĩa là được ơn tha tội, được giao hòa với Chúa Cha và được sống muôn đời. Giống như người mù dù không xem thấy, thì nhờ tin Chúa Giê-su lại được xem thấy. Còn ai từ chối Chúa Giê-su là đã tự lên án chính mình, tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ của Người, giống như các đầu mục Do thái, tuy sáng mắt nhưng do không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, nên lại trở thành kẻ đui mù.
- C 18: + Ai tin vào Con của Người thì không bị kết án: Tin ở đây không phải chỉ bằng lời nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa !”, nhưng bằng việc làm theo thánh ý Thiên Chúa, biểu lộ qua sự thực hành lời Chúa Giê-su dạy” (x. Mt 7,21.24). Thánh Phao-lô cũng nói: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính, có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ… Vì tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (x. Rm 10,9-10.13). + Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi: Sứ mệnh của Đức Giê-su là ban sự sống, ban ơn cứu độ cho những ai tin Người. Ai cố tình không chấp nhận Ngôi Lời Nhập Thể, tức là không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa (x Ga 6,64), là đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, đồng nghĩa với việc tự kết án chính mình. + Vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa: Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su (x. Ga 2,23; 1 Ga 3,23). Tin vào danh của Con Một Thiên Chúa tức là liên kết với Chúa Giê-su, nhìn nhận và kêu cầu quyền năng của Người. Chỉ nhờ Danh Chúa Giê-su, loài người mới được ơn cứu độ (x. Pl 2,9-11; Cv 10,43). Trái lại, những kẻ không tin vào Danh Người thì đã bị kết án.
4. HỎI ĐÁP:
- HỎI 1) Chúa Giê-su đã dạy thế nào về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?
ĐÁP:
+ Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã nói nhiều về mối liên hệ mật thiết giữa Người với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần sau bữa tiệc ly Vượt Qua (x. Ga 14.15.16.17).
+ Tin Mừng Mát-thêu ghi lại lời Đức Giê-su mặc khải rõ nhất về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (x. Mt 28,19). Tin Mừng Mát-thêu cũng ghi lại cuộc thần hiện tại sông Gio-đan như sau: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17). Tiếng phán, Đức Giê-su và chim bồ câu là biểu tượng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
+ Thánh Phao-lô cũng dạy về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trong lời nguyện chúc sau: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2 Cr 13,13).
+ Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ lại trình bày lịch sử cứu độ theo chiều kích Ba Ngôi như sau: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời cứu thế rao giảng Tin Mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời Giáo Hội được khai sinh và phát triển đến Rô-ma, hay đến “tận cùng thế giới” là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
- HỎI 2) Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi được Thánh Kinh trình bày như mầu nhiệm Tình Yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa ra sao?
ĐÁP:
+ Chúa Cha hằng hữu đã sinh ra Chúa Con từ trước khi có thời gian (x. Tv 2,7).
+ Chúa Cha yêu mến Chúa Con và ban cho Chúa Con mọi quyền xét xử (x. Ga 5,20.22). Chúa Con chính là hình ảnh của Chúa Cha. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9-10). “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11). “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Chúa Giê-su luôn vâng phục và làm theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga 5,19).
+ Chúa Thánh Thần là Tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 15,26).
- HỎI 3) Ta có thể dùng một số hình ảnh nào để minh họa về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?:
ĐÁP:
+ Nhà thần học PHĂNG-SÍT (Frank Sheed) đã dùng hình ảnh mưa rơi để giúp người ta hiểu phần nào về mầu nhiệm đơn nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi khi nói rằng: “Nước đang mưa đây đích thực là nước, nhưng có thể xuất hiện bằng ba dạng khác nhau là: dạng hơi nước, dạng băng đá và dạng nước thường như ta thấy”.
+ Thánh I-nha-xi-ô một lần kia trong lúc cầu nguyện bỗng nhận ra “ba nốt nhạc có thể làm thành một hợp âm duy nhất” cũng giống như Ba Ngôi hiệp nhất trong một bản thể duy nhất.
+ Thánh Pa-tríck thường dùng hình ảnh lá cây tam diệp thảo do ba lá nhỏ ghép lại thành một lá lớn.
+ Có người lại dùng một hình tam giác đều có ba cạnh ba góc bằng nhau để diễn tả mầu nhiệm này.
+ Ngòai ra chúng ta cũng có thể dùng hình ảnh sau đây để minh họa phần nào về mầu nhiệm này như sau: Một người đàn ông khi lập gia đình và có con thì tuy anh ta chỉ là một người, nhưng đóng ba vai trò khác nhau: Là cha của đứa con, nên anh được con gọi “Bố ơi”; Là con của bố mẹ. nên anh được bố mẹ gọi “Con ơi”; Là chồng của vợ, nên anh được vợ gọi “Mình ơi”.
- HỎI 4) Ba Ngôi Thiên Chúa làm gì cho chúng ta ?
ĐÁP:
+ Thiên Chúa Cha (Ngôi thứ Nhất) đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật. Đặc biệt loài người đã được Thiên Chúa tạo thành theo hình ảnh của Người và có hồn thiêng bất tử và có tình yêu thương (x. St 1,37).
+ Khi nguyên tổ loài người nghe theo ma quỷ cám dỗ mà phạm tội không vâng lời ăn quả cây trái cấm nên phải mang án chết như lệnh Chúa truyền: “Ngày nào ngươi ăn trái này thì ngươi sẽ phải chết”. Nhưng khi nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm và sẽ phải chết, thì Thiên Chúa đã hứa ban Chúa Con (Ngôi thứ Hai) xuống thế để cứu chuộc loài người khi đề cập đến “Dòng dõi người nữ sẽ đạp nát đầu con rắn ma quỷ”. Người dòng dõi ấy là Chúa Giê-su. Chúa Giê-su được Chúa Cha sai đến cứu độ loài người, bằng việc mở ra con đường về trời là đạo Công giáo. Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời trong 3 năm để dạy loài người nhận biết tôn thờ và sống hiếu thảo với Thiên Chúa. Cuối cùng, Người đã vâng ý Chúa Cha đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, là chịu chết trên thập giá để đền tội thay loài người và ngày thứ ba sống lại để cứu độ loài người.
+ Sau khi sống lại, Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra thổi hơn ban Thần Khí hay Thánh Thần (Ngôi thứ Ba) cho các Tông đồ. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác, là Thần Chân Lý, do Chúa Cha sai đến để thay Chúa Giê-su tiếp tục dạy dỗ các môn đệ (x. Ga 14,16). Trong thời Cựu Ước, Thánh Thần đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy loài người. Đến thời Tân Ước, Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giê-su sau khi Người chịu phép Rửa tại sông Gio-đan, để tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai (x Mt 3,16-17). Sau đó, Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc để chịu ma quỷ thử thách cám dỗ (x Mt 4,1-11), rồi Người đi khắp nơi rao giảng Tin mừng Nước Trời (x Mt 4,17). Thánh Thần cũng làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại. Vào chiều ngày phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra sai các Tông đồ tiếp tục thi hành sứ mạng cứu độ của Người và thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông kèm theo quyền tha tội (Ga 20,20-23).
+ Vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần lại hiện xuống trên cộng đoàn Hội Thánh Sơ Khai dưới dạng cơn gió mạnh ào vào nhà nơi các Tông đồ đang cầu nguyện và làm xuất hiện trên đầu mỗi vị một hình lưỡi lửa (x Cv 2,1-4). Từ đây Thánh Thần luôn hiện diện trong Hội Thánh để thánh hóa các tín hữu qua các phép bí tích Hội Thánh cử hành, giúp các Mục Tử chu toàn sứ mệnh chăm sóc đoàn chiên và làm chứng nhân cho Người đến tận cùng thế giới (x. Ga 15,26).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẾ NÀO LÀ TÌNH YÊU TỘT ĐỈNH ?
Thánh MÁC-XI-MI-LI-EN KON-BÊ thụ phong linh mục năm 1918. Cha đã bị Đức Quốc Xã bắt ngày 17.2.1941 và bị giam trong trại tập trung Auschwitz. Đây là nhà tù đáng sợ nhất vì có mọi hình phạt dã man dành cho các tù nhân. Tù nhân không được mang tên của mình mà phải mang một con số. Cha Maximilien Kolbe mang số tù là 16.670. Tại nhà tù này, Đức quốc xã đã đưa ra một quy định bất công: Nếu một tù nhân trốn trại, thì mười tù nhân khác sẽ phải chịu chết thay cho anh ta.
Vào một đêm tháng 8.1941, một tù nhân đã vượt ngục thành công. Thế là sáng hôm sau mười người khác đã được chỉ định phải chết thay. Trong số mười người này có một người tù tên là GAJOWNICZEK. Khi bị gọi tên, anh ta đã khóc lóc thảm thiết thương cho mẹ già, vợ dại, con thơ từ nay không còn ai chăm sóc nuôi dưỡng. Trước cảnh tượng đó, do đức bác ái thôi thúc, Cha Kolbe đã tình nguyện xin được chết thay cho người tù kia. Được chấp nhận, cha cùng đoàn tử tù bước vào phòng hơi ngạt số 14. Sau ít ngày, người ta mở cửa ngục để lôi xác mười người đã bị chết đói ra ngoài. Riêng cha Maximilien Kolbe vẫn còn thoi thóp thở, người ta chích cho ngài một mũi thuốc ân huệ. Cha tắt thở đúng vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 14.8.1941.
Trong lễ phong thánh cho chân phước Kolbe do Đức Thánh Cha Phao-lô VI cử hành, một cụ già trong đoàn người dâng lễ vật hôm ấy đã được Đức Thánh Cha ôm hôn. Đó chính là người tù đã được cha thánh Kolbe chịu chết thay. Trong giây phút trang trọng ấy, toàn thể cộng đoàn sốt sắng hát bài thánh ca: “không có tình yêu nào trọng đại cho bằng chết vì người mình yêu”. Đây là chứng tích một tình yêu cao cả khiến mọi người hiện diện đều xúc động rơi lệ.
2) TÌNH THƯƠNG THỂ HIỆN QUA LÒNG THƯƠNG XÓT:
Một người cha hứa cho cô con gái 12 tuổi một số tiền với điều kiện cô phải xén sạch đám cỏ dại ở sân trước nhà. Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gàng – nhưng vẫn vẫn còn một mảng nhỏ sót lại ở góc sân vẫn chưa được cắt. Cha của em đã không trả số tiền như đã hứa vì công việc chưa hoàn thành. Cô bé nhất định không chịu cắt nốt mảng cỏ còn lại và sẵn sàng chịu mất số tiền công. Tò mò muốn biết lý do, ông bố đến gần mảng cỏ kiểm tra thì phát hiện ra có một chú cóc đang ung dung ngồi ở giữa mảng cỏ ấy! Thì ra cô bé vì quá thương con cóc, nên đã không nỡ đưa lưỡi dao xén nốt đám cỏ ấy.
Câu chuyện trên phần nào diễn tả tình yêu của thiên Chúa (1 Ga 4,8). Thiên Chúa không nỡ hủy diệt loài người tội lỗi, nên đã sai con Một xuống thế làm người, chịu chết đền tội thay và sống lại để ban ơn cứu độ loài người. Người cũng cử Thánh Thần đến thánh hóa loài người, biến họ nên Con Thiên Chúa để xứng đáng được vào Nước Trời. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng nhằm tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa.
3) MẸ SẴN SÀNG HY SINH CHỊU CHẾT ĐỂ CON ĐƯỢC AN TOÀN:
Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến X, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên đã từ chối. Chị thà bị chết vì ung thư hơn là được chữa trị bằng bằng quang tuyến X, sẽ ảnh hưởng nặng nề đến đứa con trong bụng sắp chào đời.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng: “Vào mấy ngày cuối cuộc đời, dù biết mình sắp bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào cũng sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”. Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con, dù chưa một lần thấy mặt”.
4) PHỤC VỤ VÔ VỤ LỢI LÀ PHƯƠNG THẾ ĐỂ DIỄN TẢ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA:
Một bà kia không biết tình yêu là gì. Bà không tin vào Thiên Chúa, từ nhỏ đến lớn bà đã sống trong cảnh mồ côi nghèo khổ và bị mọi người đối xử bất công, đến nỗi bà thù ghét mọi người và ngược lại mọi người chung quanh cũng ghét bỏ bà. Một lần kia, cha sở đến thăm bà và nói về tình thương của Thiên Chúa. Nhưng bà bảo:
- Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và tôi cũng không hiểu yêu thương là gì nữa.
Cha sở về lại nhà xứ và cầu nguyện liền mấy ngày rồi sau đó nảy ra ý này: ngài mời nhóm Tông đồ trong xứ kể cho họ nghe câu chuyện này. Rồi đề nghị mọi người giúp cho bà ấy hiểu được thế nào là tình yêu của Thiên Chúa, bằng cách thay phiên nhau đến giúp đỡ phục vụ bà, để bà thấy mình vẫn được nhiều người yêu thương giúp đỡ.
Mấy tháng sau, một ngày kia, khi cha sở lại thăm thì bà xúc động rướm nước mắt:
- Thưa cha, đến bây giờ thì con đã hiểu yêu thương là gì rồi. Vậy con có thể xin cha cho con được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không?
3. SUY NIỆM:
1) THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU:
Yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, cần phải có đối tượng nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa không đơn độc nhưng có Ba Ngôi để có thể vừa cho vừa nhận.
- Tình yêu của Chúa Cha : Chúa Cha ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có: “Mọi sự của Cha đều là của Con”. Chúa Con chính là hình ảnh của Chúa Cha như Chúa Giê-su nói: ”Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”.
- Tình yêu của Chúa Con: Vì yêu Chúa Cha, nên Chúa con dâng lại cho Chúa Cha tất cả những gì mình đã nhận trong sự khiêm hạ và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, như thánh Phao-lô viết: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”. (Pl 2,8).
- Tình yêu rộng mở: Tình yêu không chỉ đóng khung trong Ba Ngôi, nhưng đã được biểu lộ qua công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật và chương trình cứu độ loài người.
2) SỐNG YÊU THƯƠNG NOI GƯƠNG THIÊN CHÚA:
Để nên con Thiên Chúa, mỗi tín hữu chúng ta hãy sống cụ thể giới răn mến Chúa yêu người như sau:
a- Thể hiện tình yêu đối với tha nhân giống như Thiên Chúa đã yêu chúng ta: Tin Mừng hôm nay cho biết Tình yêu thực sự cần có các đặc tính giống như tình yêu của Thiên Chúa như sau:
+ Tình yêu dâng hiến: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người đến trần gian để hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 3,16a; 10,11). Vậy tình yêu của bạn dành cho tha nhân thế nào ? Bạn có dám hy sinh chịu thiệt vì người mình yêu không ?
+ Tình yêu vị tha: Tình yêu chân chính luôn tìm làm cho người yêu vui vẻ hạnh phúc như Chúa Giê-su đã phán: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Bạn có yêu cha mẹ và người thân noi gương Chúa Giê-su không ?
+ Một tình yêu cao cả: Thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Thiên Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta đáng yêu, nhưng như thánh Phao-lô đã dạy: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những tội nhân” (Rm 5,8). Cũng vậy, chúng ta phải yêu mọi người, nhất là những người tàn tật, cô đơn, tội lỗi, và yêu cả những kẻ thù ghét làm hại mình (x. Lc 6,27-42). Thánh Phao-lô dạy: “Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7). Còn tình yêu của bạn đối với tha nhân như thế nào ?
+ Một tình yêu tôn trọng: Tình yêu của Thiên Chúa không chiếm hữu hay cầm tù người yêu nhưng luôn tôn trọng tự do của lòai người chúng ta: “Ai tin thì được sống đời đời. Còn kẻ không tin thì đã bị kết án”. Còn tình yêu của bạn dành cho người khác có sự tôn trọng và tin tưởng không ? Bạn có ghen tuông và cấm người yêu gặp gỡ tiếp xúc với người khác không ?
b- Sống tình mến Chúa:
Mỗi ngày hãy làm dấu thánh giá để tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, rồi dành ba phút để cầu nguyện với từng Ngôi trước khi đi ngủ như sau:
+ Phút thứ nhất: Nghĩ đến những ơn lành hồn xác Thiên Chúa đã ban cho mình, và dâng một lời để tạ ơn Chúa Cha.
+ Phút thứ hai: Xét mình để biết điều sai lỗi trong ngày. Chẳng hạn: Đã tỏ thái độ dửng dưng khi thấy người khác bị đau khổ… rồi dâng lời xin Chúa Giê-su tha tội cho mình và giúp ta sẵn sàng giúp đỡ tha nhân.
+ Phút thứ ba: Nhớ đến những sự khó khăn ta đang gặp phải và xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để giúp ta giải quyết và sẵn sàng xin vâng thánh ý Thiên Chúa.
Việc cầu nguyện này bao gồm cả ba phương diện là tạ ơn, ăn năn sám hối và xin ơn lành hồn xác. Việc cầu nguyện như thế sẽ giúp ta sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong cách suy nghĩ nói năng và hành động.
c- Thực hành yêu người cụ thể như sau:
Không chỉ yêu thương bằng lời nói nhưng bằng việc làm cụ thể theo kinh Thương Người như sau:
+ Thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống, Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; Cho khách đỗ nhà; Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết.
+ Thương hồn bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dậy kẻ mê muội; Yên ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống kẻ chết.
TÓM LẠI: chúng ta sẽ xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta không sống tình yêu thực sự với tha nhân như thánh Gio-an đã viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Ước gì cuộc đời chúng ta sẽ thấm đượm tình yêu, để mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn từ tình yêu và qui hướng về tình yêu,
4. THẢO LUẬN:
Noi gương Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, bạn quyết tâm làm gì để sống tình mến Chúa yêu người ?
5. CẦU NGUYỆN:
LẠY CHÚA BA NGÔI LÀ TÌNH YÊU hoàn hảo. Xin hãy biến đổi trái tim sơ cứng như đá của chúng con thành trái tim bằng thịt biết yêu thương. Xin dạy chúng con yêu thương mọi người, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Xin cho chúng con luôn nhìn thấy Chúa Giê-su đang ở trong chúng con và trong mọi người. Nhờ tình yêu Chúa thôi thúc, chúng con hy vọng sẽ trở nên con thảo của Chúa Cha và nên anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Lm Đan Vinh - HHTM