Lễ Thánh Gia năm A (Mt 2,13-15.19-23)

Đức GiêSu Đã, Đang Và Mãi Mãi Yêu Chúng Ta Cho Đến Cùng

"Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta"

Lễ Thánh Gia năm A (Mt 2,13-15.19-23)

Lễ Thánh Gia năm A (Mt 2,13-15.19-23)

Hãy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập.

Bài đọc 1: Hc 3,2-6.12-14

Ai kính sợ Đức Chúa thì hiếu thảo với cha mẹ.

Bài trích sách Huấn ca.

2Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái,
cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con.

3Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,
4ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.
5Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái,
khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.

6Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ,
ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.

12Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già ;
bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi.

13Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông,
chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.

14Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng,
và sẽ đền bù tội lỗi cho con.

 

Đáp ca: Tv 127,1-2.3.4-5 (Đ. c.1)

Đ.Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,
ăn ở theo đường lối của Người.

1Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,
ăn ở theo đường lối của Người.
2Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng,
bạn quả là lắm phúc nhiều may.

Đ.Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,
ăn ở theo đường lối của Người.

3Hiền thê bạn trong cửa trong nhà
khác nào cây nho đầy hoa trái ;
và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn,
xúm xít tại bàn ăn.

Đ.Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,
ăn ở theo đường lối của Người.

4Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người.5Xin Chúa từ Xi-on xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc.
Ước chi trong suốt cả cuộc đời
bạn được thấy Giê-ru-sa-lem phồn thịnh.

Đ.Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,
ăn ở theo đường lối của Người.

Bài đọc 2: Cl 3,12-21

Đời sống gia đình theo tinh thần của Chúa.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê.

12 Thưa anh em, anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.

16 Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su, và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.

18 Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19 Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.

 

Tin mừng: Mt 2,13-15.19-23

13 Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!”

14 Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.

15 Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

19 Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, 20 báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.”

21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en.

22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, 23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.

Bài giảng CN Lễ Thánh Gia Thất: "Mỗi người trở nên thánh thiện trong bổn phận của mình"

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Với lòng thành tín của người cha nuôi, Thánh Giuse đã chẳng quản ngại trời đông giá rét, đêm tối đường xa. Người vội vã đem Hài Nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập.

Hình ảnh người cha hiền, người chồng trung tín luôn yêu thương bảo vệ gia đình của Thánh Giuse phản ánh tính tuyệt vời của Thiên Chúa, của Ðức Giêsu đối với Giáo Hội, đối với nhân loại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua bài Tin Mừng hôm nay, mẫu gương của Thánh Giuse dạy cho chúng con: Tất cả vì hạnh phúc gia đình, và tuân hành ý Chúa. Xin cho các bậc gia trưởng, các vị hiền mẫu và những người con luôn chu toàn vai trò của mình. Gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa được vinh danh, xã hội luôn an bình. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy đem Con Trẻ và mẹ Người trốn sang Ai-cập”.

 

2. Suy niệm (Lm Ignatio Hồ Văn Xuân)

  1. CHIA SẺ LỜI CHÚA
  2.  

    • Vào Chúa nhật trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, Giáo Hội mời ta cử hành lễ Thánh Gia Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a và Thánh Cả Giu-se, gương mẫu cho tất cả các gia đình Công Giáo chúng ta.

    Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Thánh Gia trải qua nhiều khó khăn. Hài Nhi mới sinh thể bị giết chết : “Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng : ‘Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !’” Tình hình thật bi đát đối với Thánh Gia, khiến “ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập”.

    • Trong thực tế, nhiều gia đình cũng gặp những tình huống bi đát như vậy. Biết bao người bị buộc phải rời bỏ quê hương xứ sở, nhiều gia đình phải chạy trốn chiến tranh, khủng bố, tìm nơi ẩn náu an toàn ở một nơi khác cách xa quê cha đất tổ của mình. Chúng ta phải đồng cảm và xót thương họ, chắc chắn Chúa luôn quan tâm đến số phận của họ như đã quan tâm đến sự an nguy của từng thành viên Thánh Gia. Về phía chúng ta, đừng dửng dưng trước nỗi thống khổ của những người đang gặp hoạn nạn, nhưng hãy tận tình giúp đỡ họ trong khả năng của mình. Thánh Gia là một gia đình liên kết chặt chẽ với nhau vì luôn làm theo thánh ý Chúa. Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a lúc nào cũng vâng lệnh Chúa truyền qua thiên sứ. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh khó khăn, chỉ tâm tình, ước muốn vâng

 

 

theo ý Chúa mà thôi thì chưa đủ mà phải bằng hành động, bằng việc làm cụ thể. Trong trường hợp của Đức Ma-ri-a và thánh Cả Giu-se, thánh ý của Thiên Chúa là rất rõ ràng, là Người muốn hình thành Thánh Gia, một gia đình đặc biệt bởi Đức Ma-ri-a thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Việc vâng theo thánh ý Chúa tạo nên sự liên kết mật thiết giữa Đức Mẹ và thánh Giu-se. Cả hai Đấng chăm sóc Chúa Hài Nhi hết lòng hết sức để bảo vệ và giúp Hài Nhi lớn lên trong ân sủng Chúa. Tình hiền phụ và mẫu tử của các ngài thật nồng nàn và quảng đại biết bao.

    • Tất cả các gia đình chúng ta phải luôn cố gắng vâng theo thánh ý của Thiên Chúa là thánh ý của tình yêu. Cách chung các gia đình cần xây dựng trên nền tảng tình yêu mà Thiên Chúa muốn. Để có thể mãi kết hợp với nhau, mỗi người phải biết luôn vâng theo thánh ý Chúa. Tất cả mọi gia đình phải là tổ ấm yêu thương : tình yêu vợ chồng, tình phụ tử, tình mẫu tử và tình hiếu thảo. Thiên Chúa là Tình Yêu, nên ta có thể nói rằng Thiên Chúa tạo dựng đời sống gia đình của con người theo hình ảnh Người.

Nhiều lần Cựu Ước nhắc đến bổn phận hiếu thảo đối với cha mẹ. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô nhắc lại điều răn phải thờ cha kính mẹ phát xuất từ một lời hứa : “Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa : để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,2-3). Như vậy, ai tôn kính cha mẹ sẽ được Chúa chúc phúc. Điều đó cho thấy Thiên Chúa đặc biệt quan tâm đến gia đình và đặc biệt hơn nữa là lòng yêu mến và biết ơn của con cái đối với cha mẹ, không chỉ từ lúc ấu thơ mà ngay khi đã trưởng thành, suốt đời con cái phải biết ơn và thảo kính đối với cha mẹ, vì đã nhận được sự sống từ các ngài. Vì thế lòng biết ơn là một bổn phận. Tuy trong đời sống gia đình, đôi khi có những bất đồng ý kiến, những bất hoà, nhưng không bao giờ

 

 

con cái được thiếu lòng biết ơn đối với cha mẹ. Trong khi Cựu Ước nói về việc thờ cha kính mẹ, tôn vinh các ngài, thì không chỉ nhắm tới những lời nói suông, hay chỉ những tâm tình hiếu thảo, mà phải thể hiện bằng những sự giúp đỡ cụ thể trong lúc các ngài gặp khó khăn về kinh tế cũng như khi sức khoẻ đã giảm sút vì tuổi cao sức yếu. Sách Huấn ca nhấn mạnh đến vinh dự mà cha mẹ được hưởng và cho thấy tầm quan trọng của bổn phận mà con cái phải làm : “Lòng hiếu nghĩa đối với cha mẹ sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.” Việc làm này giống như một thứ bí tích xoá bỏ mọi lỗi lầm : “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.” Quả thật, một gia đình sống trên thuận dưới hoà, hiếu thảo đối với cha mẹ sẽ được Chúa ban muôn phúc lành. Trong gia đình như vậy ngự trị một bầu khí bình an, chan hoà, vui tươi và tràn ngập yêu thương.

Ngoài ra, sách Huấn ca còn đề cập đến tuổi già của người cha, nhiều khi trí nhớ không còn như xưa : “Con ơi, hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già ; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.” [cũng như hàn gắn mọi rạn nứt trong gia đình]. Tất cả chúng ta hãy kính trọng và thương yêu những người cao tuổi, đau yếu, bệnh tật và đôi khi lú lẫn vì trí nhớ không còn minh mẫn nữa. Gánh nặng này phải được các thành viên trong gia đình gánh bằng tình yêu.

Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô còn chỉ cho ta biết đời sống gia đình theo tinh thần của Chúa : “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại.”

Chúng ta là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, chúng ta phải trở nên thánh vì chúng ta đã được thánh hoá

 

 

nhờ bí tích Thánh Tẩy và được Chúa yêu thương. Tất cả mọi ơn lành chúng ta nhận được từ Chúa phải giúp chúng ta có những tâm tình thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại : tất cả những tâm tình này làm cho mối liên hệ thân thiết giữa các thành viên trong gia đình trở nên tốt đẹp hơn. Thánh Phao-lô mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho nhau khi có những bất hoà, xung khắc. “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia.” Mỗi người phải luôn sẵn sàng quên đi những trái ý, phiền lòng, tha thứ cho nhau để tái lập sự hài hoà, bình an, niềm vui trong gia đình.

Anh em hãy hành động như Chúa : “Anh em cũng phải tha thứ cho nhau, như Chúa đã tha thứ cho anh em.” Chúa đã luôn tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải luôn sẵn sàng tha thứ cho anh em mình. Để cho tâm trí chúng ta luôn sẵn sàng tha thứ cho người khác, chúng ta cần phải đón nhận Lời Chúa, lắng nghe và đem ra thực hành : “Ước chi Lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú.” Tự sức riêng mình, chúng ta không thể làm được việc này, nhưng nếu chúng ta biết đón nhận Lời Chúa thì chính Lời Chúa sẽ biến đổi con người chúng ta từ bên trong, chúng ta sẽ được chữa lành và có được những tâm tình nhân hậu, kiên nhẫn và xót thương. “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm, hãy nói nhân danh Chúa Giê-su, và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” Như thế, đời sống gia đình dần dần đạt tới sự trọn lành, ngập tràn hạnh phúc. Thánh Phao-lô cũng đưa ra những lời khuyên ngắn gọn nhưng rất quan trọng đối với mỗi thành viên trong gia đình. Đối với người vợ, ngài khuyên hãy tùng phục chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Trong thực tế, người cha là người điều khiển gia đình cùng với người mẹ, hai người phải

 

 

đồng thuận với nhau thì đời sống gia đình mới êm ấm được. Đối với người chồng, thánh Phao-lô khuyên hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Tình yêu nền tảng của gia đình người chồng phải luôn sống tình yêu này thì đời sống gia đình mới bình an hạnh phúc được. “Con cái phải vâng lời cha mẹ trong mọi sự, đó điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ thì đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.” Điều quan trọng trong việc giáo dục con cái tình yêu nhưng không nuông chiều tính kỷ luật cũng không thể thiếu.

* Gia đình phải một tổ ấm yêu thương, trường đào tạo tông đồ, Giáo Hội tại gia luôn Chúa Ba Ngôi ngự trị.

thể kể chuyện về hai gia đình gương mẫu :

  1. Gia đình cha mẹ của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su : ông Martin và bà Marie Guérin.
  2. Gia đình thánh Luigi Quattrocchi Maria Corsini.
Cầu nguyện :

Lạy Thánh Gia Na-da-rét, xin phù hộ, chở che và hướng dẫn các gia đình Công Giáo chúng con luôn sống trên thuận dưới hoà, đùm bọc lẫn nhau trong tình bác ái.

Tự vấn :

Các bậc làm cha mẹ thử xét mình xem mình quan tâm đến việc giáo dục đức tin nhân bản cho con cái không ?

  1. BÀI ĐỌC THÊM
  2.  

    1. Không ai thể cản trở ý định của Thiên Chúa

    (J. Potel, “Giê-su, lịch sử đích thực”, Centurion, 494, tr. 99-100). Không ai thể cản trở ý định của Thiên Chúa. Vua

    Pha-ra-ô đã tính trừ khử mọi trẻ em Do-thái. Chương trình thất

    bại Mô-sê được công chúa con Pha-ra-ô cứu. Thiên Chúa đã

 

 

giải thoát dân Người đã dẫn đưa dân về miền Đất Hứa. Hôm nay, lại một nghịch nữa, Đấng Cứu Thế tị nạn sang Ai-cập ! Điều đó chứng tỏ rằng Thiên Chúa vẫn tự mình hướng dẫn các biến cố, như những lời Kinh Thánh được Thánh Mát-thêu trưng dẫn đã chứng tỏ. Đấng Cứu Thế xuất hiện như một Mô-sê mới, như sự nhập thể của Ít-ra-en mới khi vượt qua sa mạc Xi-nai, cũng như xưa, dân được tuyển chọn đã đi dưới sự hướng dẫn của Mô-sê.

Cuộc lưu đày này chỉ tạm bợ. Thiên Chúa gọi Người trở lại Ít-ra-en. Người ta tưởng Đấng Cứu Thế sẽ định ở Giu-đê, nơi Người sinh ra, hoặc ở Giê-ru-sa-lem. Nhưng con trai Hê-rô-đê, vua Ác-khê-lao, cũng tàn ác như cha. Nên Thiên Chúa sai Giu-se đem gia đình đến định cư tại Na-da-rét trong miền Ga-li-lê. Thánh Mát-thêu nhìn thấy trong sự kiện này ứng nghiệm một lời tiên tri : “Người sẽ được gọi là người Na-da-rét” : từ ngữ có nghĩa là “người tuân giữ”, như những đứa trẻ, Gio-an Bao-ti-xi-ta chẳng hạn, được cung hiến cho Thiên Chúa ngay từ trong lòng mẹ. Nhưng từ ngữ chỉ giản đơn nói Người là cư dân Na-da-rét. Thánh Mát-thêu đua tranh với các ráp-bi Do-thái về sự tinh tế trong việc sử dụng các bản văn Kinh Thánh ! Dù sao, điều chính yếu là Đức Giê-su Đấng Cứu Thế sẽ tỏ mình ra trước hết tại Ga-li-lê của các dân tộc, trong thành phố mà dân Do-thái và dân ngoại chung sống, cũng như trong các cộng đoàn Ki-tô hữu vào lúc ngài soạn thảo sách Tin Mừng, có lẽ khoảng năm 80.

  1. Những truyện kể dạy ta đọc lại lịch sử (Mgr. L. Daloz, Le règne des cieux s’est approché”, Desclée de Brouwer, 1994, tr. 21).

Những truyện ấy dạy ta đọc lại lịch sử. Ánh mắt ta thường dừng lại nơi những biến cố dễ thấy nhất ; những biến cố ấy thường mờ đục và có khi nghiền nát ta … Để đọc được niềm hy

 

 

vọng trong lịch sử đời ta, lịch sử thế giới, lịch sử đời sống, cần phải nghe lời Thiên Chúa nói với ta như nói với thánh Giu-se. Nếu ta chăm chú lắng nghe trung tín với Lời Người, thì Người sẽ trở thành ánh sáng xuyên thủng lớp mờ đục của các biến cố. Lời Chúa sẽ cho ta thấy đâu thánh ý của Người đối với thế giới, và với ta. Lời Chúa giúp ta nhận định điều quan trọng. Lời Chúa cho thấy những dấu chỉ hy vọng trong những hoàn cảnh vô vọng đối với loài người. Lời Chúa dạy ta biết sống như thánh Giu-se với sự mau mắn và thấu hiểu xuyên qua tấm màn các biến cố. Chỉ đọc thoáng qua, ánh sáng Lời Chúa giống như “một giấc mơ”, một không tưởng. Tuy nhiên, đó chính là mặc khải lớn nhất, mặc khải của con mắt đức tin. Lúc đó bóng tối đức tin biến thành ánh sáng rực rỡ, sự vâng lời của đức tin trở thành con đường tự do. Không hẳn là ngay sau đó ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong các biến cố đời mình đâu. Mỗi biến cố không mang trong mình trọn vẹn ý nghĩa : nó chỉ thúc đẩy ta hành động, truy tìm, đức tin đâu miễn cho ta khỏi do dự, nghi nan, tăm tối. Đức tin chỉ khơi dậy tự do và trách nhiệm. Ta đâu thể bước đi mà không lầm lạc, không yếu đuối, không tội lỗi. Chỉ đến chung cuộc, khi ta thấy Thiên Chúa diện đối diện, ý nghĩa trọn vẹn của đời ta mới được giải mã. Chỉ đến chung cuộc của thời gian mục đích mà thế giới hướng tới mới biểu lộ. Từ nay tới lúc ấy, ta phải luôn kiên nhẫn và trung thành : chúng ta bước tới trong đức tin.

 

LỄ ĐỨC MA-RI-A, MẸ THIÊN CHÚA

 

  1. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
  2.  

    Bài đọc 1                                                                            Ds 6,22-27

    Khi chúng kêu cầu danh Ta cho con cái Ít-ra-en, Ta sẽ ban phúc lành.

    Bài trích sách Dân số.

    22 Đức Chúa phán với ông Mô-sê : 23 “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng : Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này :

    24 ‘Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em !

    25 Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em, và dủ lòng thương anh em !

    26 Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn, và ban bình an cho anh em !’

    27 Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.”

    Đó là lời Chúa.

    Đáp ca                                                     Tv 66,2-3.5.6 và 8 (Đ. c.2a)

    Đ. Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc cho chúng con.

    2 Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,

    xin toả ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con,

    3 cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,

    và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.                         Đ.

    5 Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ,

    vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh,

    Người cai trị muôn nước theo đường chính trực

    và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này.                         Đ.

 

 

6 Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.

8 Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta !

Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người !                             Đ.

 

Bài đọc 2                                                                                 Gl 4,4-7

Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ga-lát.

4 Thưa anh em, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, 5 để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi !” 7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.

Đó là lời Chúa.

Tung hô Tin Mừng                                                                Hr 1,1-2

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng                                                                           Lc 2,16-21

Các người chăn chiên gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se và Hài Nhi.

Được đủ tám ngày, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su.

X Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

16 Khi ấy, các người chăn chiên hối hả ra đi đến Bê-lem. Họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ kể lại điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi này. 18 Tất cả những ai nghe đều ngạc nhiên về những gì các

 

 

người chăn chiên nói cho biết. 19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo.

21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su ; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.

Đó là lời Chúa.

 

  1. CHIA SẺ LỜI CHÚA
  2.  

    Bài chia sẻ 1

     

    * Hôm nay, ngày đầu năm dương lịch, Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành trọng thể lễ Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội gửi đến chúng ta những lời chúc phúc dịp năm mới cũng tha thiết kêu mời chúng ta cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Những yếu tố này tạo nên một sự hài hoà tuyệt vời : Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa là Nữ Vương hoà bình, Nữ Vương ban sự bình an. Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa gửi đến chúng ta những lời chúc phúc của Thiên Chúa và ban cho chúng ta bình an, niềm vui, thanh thản, và trên hết là tình yêu.

    Bài đọc 1 trích từ sách Dân số được chọn để gửi những lời chúc năm mới đến tất cả các Ki-tô hữu trên toàn thế giới. Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Hãy nói với A-ha-ron và các con của ông này về lời chúc phúc của hàng tư tế.” Một lời chúc phúc là một lời chúc đem lại điều tốt lành cho người được chúc. Lời chúc phúc của hàng tư tế là một lời chúc tuyệt đẹp vì hoàn toàn dựa vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước và

 

 

Tân Ước, chúc phúc hay chúc lành không khác hơn mong cho một người nào đó được mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa. Một khi mối liên hệ đã được thiết lập, thì đương sự luôn hướng về điều thiện. Trái lại, nếu mối liên hệ thân tình này không có, thì con người ta dễ những hành động sai trái, nhiều khi dẫn đến thảm kịch. Trong Cựu Ước, lời chúc phúc luôn nhân danh Chúa gửi đến cho một người nào đó, lời chúc phúc của hàng tế hệ tại việc kêu cầu danh Chúa cho dân Do-thái. Bài đọc 1 hôm nay kêu xin ba lần danh Đức Chúa : “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em ! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em ! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em ! Và bản văn kết luận : “Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Điều đó giúp chúng ta hiểu rõ tầm quan trọng của mối liên hệ với Thiên Chúa, vì mối liên hệ đó sẽ đem lại cho chúng ta hạnh phúc, bình an và niềm vui trong năm mới đang về. Chúng ta phải mong ước Danh Chúa luôn phù trợ chúng ta và chúng ta luôn gắn bó với Danh Người, và không ngừng thi hành thánh ý Người. Đức Ma-ri-a luôn được Chúa chúc lành vì Đức Mẹ luôn là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa, một con người luôn vâng theo ý Chúa. Đức Mẹ nói với tất cả chúng ta, như đã nói với các gia nhân trong tiệc cưới Ca-na ngày xưa : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo !” (Ga 2,5). Đức Mẹ dạy chúng ta phải luôn làm theo thánh ý Chúa. Vì thế, Người là Mẹ thiêng liêng của tất cả chúng ta.

Bài đọc 2 bản văn duy nhất trong đó thánh Phao-lô đề cập đến Đức Ma-ri-a, Đấng đã hạ sinh Con Thiên Chúa trong thế gian. Thánh Phao-lô sử dụng một kiểu nói thật long trọng : “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của mình tới, sinh làm con một người đàn bà, hầu chúng ta nhận được ơn

 

 

làm nghĩa tử.” Ở đây mầu nhiệm Nhập Thể được diễn tả qua nhiệm vụ chính yếu của một người phụ nữ là Đức Ma-ri-a. Để chúng ta có thể nhận được ơn làm nghĩa tử, điều cần thiết là Thiên Chúa sai Con của Người đến trong thế gian, sinh làm con một người phụ nữ. Mối liên hệ cha con đối với Thiên Chúa được biểu lộ qua sự hiện diện của Thần Khí của Chúa Con kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi !” Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa vì Đức Mẹ đã thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần. Nhờ tình mẫu tử của Mẹ mà chúng ta nhận được ơn Thánh Thần giúp chúng ta trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa Cha. Thánh Phao-lô kết luận : “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” Ước chi đường hướng này đồng hành cùng chúng ta suốt năm mới này.

Bài Tin Mừng hôm nay, trừ câu cuối cùng giống như bài Tin Mừng lễ Rạng Đông của ngày lễ Giáng Sinh, kể lại việc các người chăn chiên hối hả ra đi đến Bê-lem. Họ gặp Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Cuộc gặp gỡ giữa các người chăn chiên với Đức Ma-ri-a Hài Nhi làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa về tình mẫu tử của Đức Mẹ. Người hạ sinh con của Người cũng là Con Thiên Chúa, chào đời trong khung cảnh nghèo khổ tột độ, nằm trong máng cỏ.

Đám đông ngạc nhiên về câu chuyện của các người chăn chiên. Trái lại, Đức Mẹ ghi nhớ tất cả mọi việc suy đi nghĩ lại trong lòng, Đức Mẹ đón nhận tất cả mọi sự từ Thiên Chúa, không chỉ Lời của Thiên Chúa còn tất cả các biến cố, Đức Mẹ đón nhận tất cả với tình con thảo trong ngập tràn yêu thương. Bài Tin Mừng kết thúc với việc gợi lại phép cắt của Hài Nhi. Tám ngày sau khi chào đời, mộttrai phải được cắt được đặt tên : “Khi Hài Nhi đã được đủ tám ngày, nghĩa

 

 

đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi Giê-su ; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ” (Lc 2,21). Đức Ma-ri-a Mẹ của Đức Giê-su, nghĩa Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Đức Ki-tô. Chúng ta tin tưởng Mẹ của Đức Giê-su, Thiên Chúa biết bao ! Nhưng Đức Giê-su không phải là một người như những người khác, nhưng là Ngôi Lời của Thiên Chúa, một nhân vật thần linh, là Con Thiên Chúa. Vì thế Giáo Hội gọi Đức Mẹ là “Theotokos”, là “Mẹ Thiên Chúa”.

* Hôm nay chúng ta dâng thánh lễ kính trọng thể Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, tâm hồn chúng ta ngập tràn niềm vui, tin tưởng và bình an. Chúng ta xin Đức Mẹ là Nữ Vương Hoà Bình, Nữ Vương ban sự bình an chuyển cầu cùng Chúa ban bình an cho những vùng còn khói lửa chiến tranh trên thế giới, để mọi người được sống trong hoà bình, hạnh phúc và an vui.

Kể thêm về việc hình thành tín điều Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, phần kết của kinh Kính Mừng.

Bài chia sẻ 2

 

LỄ ĐỨC MA-RI-A, MẸ THIÊN CHÚA

 

  1. Về tước hiệu Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa

Ngày 22 tháng 6 năm 431, 160 giám mục Ai-cập, Pa-lét-tin và Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ) khai mạc Công Đồng Chung tại Ê-phê-xô, một thị trấn thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Chỉ sau một ngày tranh luận, Công Đồng đã tuyên bố cách chức Nestoriô, Thượng phụ thành Constantinople, kèm theo 12 đề tài tuyên vạ tuyệt thông do thánh Cyrillô, giám mục thành A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập đề nghị, vì Nestoriô đã phủ nhận Đức Ma-ri-a không phải là Mẹ Thiên Chúa, nhưng chỉ là Mẹ Đức Ki-tô.

 

 

Chính đêm đó, toàn thể giáo dân Ê-phê-xô chào mừng Công Đồng Chung bằng một cuộc rước đèn đại tung Mẹ Thiên Chúa : “Thánh Ma-ri-a, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử. A-men.” Kinh đó đã được soạn ra trong dịp này, rồi được tháp vào kinh Kính Mừng như chúng ta vẫn đọc ngày nay. Đức Giáo Hoàng Cêlestinô thứ nhất đã phê chuẩn việc này.

Công Đồng Ê-phê-xô xác quyết rằng trong Chúa Ki-tô hai bản tính Thiên Chúa nhân loại, cả hai kết hợp với nhau trong một ngôi vị duy nhất, như mặc khải đã dạy truyền thống Ki-tô giáo đã tin đã quả quyết. Công Đồng tuyên dạy rằng : Chúa Ki-tô cũng chính là Ngôi Hai Thiên Chúa có tự đời đời, là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Người được Chúa Cha “sinh ra” từ thuở đời đời ; trong tư cách là phàm nhân, Người được Đức Trinh Nữ Ma-ri-a sinh ra trong thời gian. Và bởi ý Chúa Ki-tô là một chủ thể duy nhất, nên Đức Ma-ri-a có toàn quyền được gọi bằng tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”.

  1. Suy niệm bài Tin Mừng Lc 2,16-21

Chúng ta suy niệm năm điểm trong bài Tin Mừng vừa nghe :

  1. Các người chăn chiên đến “xem”
  2. Bài Tin Mừng lễ Đêm Giáng Sinh kết thúc với lời sứ thần báo tin cho các người chăn chiên : “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Đó là những tước hiệu của Đấng Phục Sinh mà sứ thần công bố trước : Đấng Cứu Độ, Đấng Ki-tô, Đức Chúa. Thánh Lu-ca đề cao các người chăn chiên. Ngài cố ý dùng hai hình ảnh. Một đàng, các người chăn chiên thuộc về một giai cấp xã hội mà các kinh sư thường khinh dể. Trước hết, đó là những người nghèo, những người khiêm tốn, mà sứ

 

 

điệp cứu độ được trao ban. Nhưng, đàng khác, các người chăn chiên là những mục tử, như các vị vua và các ngôn sứ, và vào thời tác giả Tin Mừng, họ là những người rao giảng Tin Mừng.

Mặc dầu đón nhận niềm vui Giáng Sinh, nhưng các người chăn chiên không mang quà đến cho Hài Nhi mới sinh. Họ đến để xác nhận dấu chỉ sứ thần đã báo cho họ loan báo sứ điệp đã nhận từ trời. Lúc ấy, ca-mê-ra Tin Mừng liên kết hai sự việc cùng một lúc.

  1. Các người chăn chiên,
  2. những vị thừa sai của Tin Mừng

    Các người chăn chiên kể lại những họ đã thấy tại Bê-lem đã nghe từ trời. Thánh Lu-ca báo trước điều các Tông Đồ sẽ nói trước Thượng Hội Đồng, sau khi Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết : “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Lúc đó, những ai nghe các người chăn chiên thuật lại mọi việc đều rất đỗi ngạc nhiên. Trong ngôn ngữ của Lu-ca, động từ “ngạc nhiên” diễn tả một sự ngạc nhiên thú vị khiến người nghe bối rối.

    1. Đức Ma-ri-a
    2. Ca-mê-ra trở lại hình ảnh Đức Ma-ri-a. Nếu các thính giả của những người chăn chiên vừa thán phục vừa bối rối, thì Đức Ma-ri-a “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Như thế Người giống với những ai đã được Thiên Chúa mặc khải các mầu nhiệm : “Tôi, Đa-ni-en, tôi giữ những sự ấy trong lòng” (Đn 7,28). Vậy Đức Ma-ri-a suy niệm những biến cố nào ? Ngay lúc đó là câu chuyện về các người chăn chiên, nhưng cũng là biến cố Truyền Tin, trong đó sứ thần Gáp-ri-en cho Đức Mẹ biết là Người sẽ trao cho thế gian “Con của Đấng Tối Cao”. Đó là cuộc thăm viếng của Cựu Ước (bà Ê-li-sa-bét) chào Giáo Hội non trẻ (Đức Ma-ri-a), người

 

 

mẹ Chúa của bà. Bởi vì, đối với Lu-ca, Đức Mẹ đại diện cho Giáo Hội, khi tiếp nhận Tin Mừng do các mục tử rao giảng, đã quy tụ “những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (x. Lc 8,19-20).

  1. Kết thúc sứ vụ của các người chăn chiên
  2. Khi kết thúc sứ vụ, các người chăn chiên trở lại cuộc sống thường ngày. Niềm vui tột cùng của họ báo trước niềm vui của các môn đệ. Khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem, họ ca tụng Thiên Chúa “vì tất cả những phép lạ họ đã thấy” lặp lại sứ điệp lễ Giáng Sinh : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

    1. Cắt
    2. Cắt cắt bỏ da quy đầu của người con trai. Tập tục này được thực hành nơi nhiều dân tộc, nhất nơi các dân Sêmita (trong đó dân Do-thái). Nơi các dân tộc khác, nghi thức được cử hành lúc người thiếu niên đến tuổi dậy thì hoặc lúc lập gia đình.

      Từ khi tổ phụ Áp-ra-ham nhận nghi thức này như dấu chỉ của Giao ước (x. St 17,9-14), người Ít-ra-en coi phép cắt dấu chỉ thuộc về Dân Thiên Chúa. Phép cắt bì được thực hiện vào lúc đứa bé được tám ngày tuổi (x. Lv 12,3). Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng cho thấy việc cắt bì ngoài thể xác tự nó không có giá trị (x. Gr 9,24) ; nhưng cắt bì trong tâm hồn mới làm cho người ta được hưởng lời hứa của Giao ước (x. Gr 4,4 ; Lv 26,40-42). Thánh Phao-lô cho thấy đức tin đã làm cho nghi thức cắt bì trở nên ích, bởi chỉ Đức Ki-tô mới ban ơn cứu độ. Do đó, thánh Phao-lô chỉ ông Áp-ra-ham được kể người công chính không phải nhờ cắt nhờ lòng tin vào Thiên Chúa (x. Rm 4,2-3 ; Gl 5,6). Phép cắt bì đích thực là ở

 

 

bên trong tâm hồn, không do tay con người thực hiện ; hoán cải về với Đức Ki-tô chính là chịu phép cắt bì (x. Pl 3,3 ; Cl 2,11).

  1. Cầu cho hoà bình thế giới

Ngày đầu năm mới dương lịch cũngngày cầu cho hoà bình thế giới. Như tất cả mọi người đang sống trên trái đất này, tất cả chúng ta đều mong cho thế giới được hoà bình, hoà bình thì con người mới thể sống hạnh phúc như mình mong muốn. Không một người nào đang sống trên hành tinh này muốn chiến tranh cả, chiến tranh chỉ đem đến chết chóc, tang thương, đổ nát huỷ diệt. Nhưng đáng tiếc thay, trên thế giới hôm nay, chiến tranh vẫn còn, gây ra biết bao đau khổ cho con người. thế, trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa Vua Hoà Bình ban cho thế giới ơn bình an, cho chiến tranh sớm chấm dứt để con người không còn đau khổ nữa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Hoà Bình.

Cầu nguyện :

Lạy Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Nữ Vương ban sự bình an, xin Mẹ thương ban cho tất cả chúng con được bình an, mạnh khoẻ sống đẹp lòng Chúa trong suốt năm mới này.

Tự vấn :

Trong đời sống đức tin thường ngày, chúng ta phải những người xây dựng hoà bình, đem lại bình an cho những ai chúng ta gặp gỡ không ?

 

 

C. BÀI ĐỌC THÊM

 

  1. “Đức Ma-ri-a, kiểu mẫu của Giáo Hội, tiên khởi của các kẻ tin” (N. Quesson, trong “Parole de Dieu pour chaque dimanche. Năm A”, Droguet et Ardant, tr. 41).

Theo thánh Lu-ca, việc đặt tên này một hội phụ để làm nổi bật vai trò của Đức Ma-ri-a ; tác giả nhấn mạnh rằng Đức Ma-ri-a, Mẹ Hài Nhi đã nhận cho con tên này, tên mà sứ thần đã đặt cho “trước khi Hài Nhi được thụ thai trong lòng mẹ …”.

Công Đồng Va-ti-ca-nô II sau một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã giới thiệu Đức Ma-ri-a “kiểu mẫu của Giáo Hội”, “người tiên khởi của các kẻ tin”. trong trang Tin Mừng này, thật sự chúng ta vừa mới nhìn nhận rằng Đức Ma-ri-a người đầu tiên đón nhận suy gẫm Lời Chúa trong lòng … Và Mẹ cũng là người đầu tiên nói lên lời tuyên xưng cốt yếu của lòng tin chúng ta : Thiên Chúa cứu độ !

Trong ngày đầu năm mới này, Đức Ma-ri-a đã nhắc nhở cho ta đâu một lòng tin mới mẻ của người Ki-tô hữu. Tính chất độc đáo của đức tin nơi các Ki-tô hữu họ không chỉ tin vào Thiên Chúa mà thôi. Phần đông người ta đều tin như thế, đặc biệt là các tín đồ của những tôn giáo lớn trên thế giới như Do-thái giáo, Hồi giáo cũng như những tôn giáo chủ trương mọi vật đều có hồn. Nét đặc trưng và đặc thù của người Ki-tô hữu là họ tin vào việc Thiên Chúa nhập thể trong con người Đức Giê-su Ki-tô.

Lòng sùng kính đối với Đức Ma-ri-a, đặc biệt với tước hiệu Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa chỉ nhắc lại cho chúng ta nét đặc trưng kia vậy.

 

 

  • “Một cái tên tỏ một căn tính” (L. Sintas, “Parole de Dieu pour la méditation et l’homélie. Năm C”, Médiaspaul, tr. 24-25).
  • Ngay trong những phiên họp đầu tiên, Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã gọi Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu “Mẹ Thiên Chúa” ý đề cao vai trò của Người. Thế là một danh xưng, một căn tính đã được tuyên dương. Phải, Mẹ Thiên Chúa là danh xưng của Người.

    Lễ mừng danh xưng mới của Đức Ma-ri-a cũng lễ kính Danh Thánh Đức Giê-su. Bởi Tin Mừng tường thuật về việc Chúa Giê-su chịu phép cắt bì : “Người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su, đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người, trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.”

    Sao ta lại không dám nghĩ đến danh xưng của mình. Khi ra đời làm người, chúng ta cũng được ông cha mẹ đặt cho một cái tên. Tên đó chỉ cho biết ta hậu duệ của ai. Nhưng khi rửa tội, ta còn được mang một tên khác, tên của một vị thánh được chọn làm thánh bổn mạng. Chính tên đặt cho khi lãnh nhận tích Thánh Tẩy, cho ta được mang danh “Ki-tô hữu”. Phải, ta trở thành Ki-tô hữu nghĩa ta “thuộc về Chúa Ki-tô”. Giống như Đức Ma-ri-a được mang danh hiệu Mẹ Thiên Chúa nhờ mối liên hệ với Đấng Người được làm mẹ, thì chúng ta nhờ liên hệ với Đấng chúng ta được làm anh em với Người, chúng ta cũng được mang danh hiệu Ki-tô hữu. Ta được căn tính mới này chính do ơn gọi Chúa ban cho ta thôi.

     

    3. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

    Sợi chỉ đỏ:

    - Bài đọc I: Ai kính sợ Chúa thì thảo kính cha mẹ.

    - Đáp ca: Kẻ kính sợ Chúa thì được hưởng hạnh phúc gia đình.

    - Phúc Âm: Gương Thánh Giuse gia trưởng.

    - Bài đọc II: Sống hòa thuận trong gia đình.

    I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

    Lễ Thánh Gia hôm nay rất có ý nghĩa đối với người Việt Nam chúng ta vốn coi trọng gia đình và các giá trị gia đình.

    Lời Chúa hôm nay tuy chưa liệt kê đầy đủ mọi đức tính phải có trong cuộc sống gia đình, nhưng những đức tính được đề cập tới đều rất quan trọng.

    Trong Thánh lễ đặc biệt này, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận giáo huấn của Lời Chúa, và tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng ta xây dựng gia đình mình theo gương mẫu Thánh gia Nadarét.

    II. GỢI Ý SÁM HỐI

    - Chúng ta đã thiếu sót rất nhiều trong bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con, làm anh chị em trong gia đình.

    - Chúng ta đã cố gắng rất nhiều để lo cho gia đình về phương diện vật chất, nhưng chưa cố gắng đủ để lo cho gia đình về phương diện tinh thần và đạo đức.

    - Gia đình chúng ta chưa là một nắm men, một hạt muối, một ngọn đèn sáng trong khu xóm.

    III. LỜI CHÚA

    1. Bài đọc I (Hc 3,2-14):

    Đoạn sách Huấn Ca này đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận con cái phải thảo kính cha mẹ.

    Nền tảng của việc thảo kính cha mẹ là chính ý muốn của Thiên Chúa: “Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái, quyền lợi người mẹ Ngài củng cố trên đàn con”.

    Thảo kính cha mẹ sinh ra rất nhiều ơn ích:

    - đền bù tội lỗi, thu được một kho tàng, làm cho cha mẹ vui, sống lâu

    - khi cầu xin sẽ được Thiên Chúa nhậm lời

    - sau này đến lượt mình có con cái thì sẽ được chúng hiếu thảo

    2. Đáp ca (Tv 127):

    Tác giả Tv 127 coi việc kính sợ Chúa là nguồn mọi hạnh phúc gia đình:

    - những lao công khó nhọc sẽ sinh kết quả

    - được vợ hiền con ngoan

    - hạnh phúc suốt đời

    3. Phúc Âm (Mt 2,13-15.19-23):

    Trong bức tranh vẽ cảnh gia đình Nadarét, có hai nét đáng lưu ý hơn cả:

    a/ Vai trò nổi bật của người gia trưởng: vai người mẹ Maria và người con Giêsu đều mờ nhạt để làm nổi bật hẳn lên vai người gia trưởng Giuse. Người gia trưởng này tuy âm thầm nhưng rất tận tuỵ lo lắng chăm sóc mọi người trong gia đình. à Một gia đình hợp nhất quanh người gia trưởng.

    b/ Nhưng bên trên vai trò người gia trưởng, còn một vai khác quan trọng hơn, đó là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dẫn dắt cuộc sống gia đình Nadarét qua đại diện của Ngài là gia trưởng Giuse. à Thiên Chúa là gia trưởng tối cao của gia đình.

    4. Bài đọc II (Cl 3,12-21):

    Thánh Phaolô liệt kê những đức tính phải có trong cuộc sống gia đình: từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.

    Trong các đức tính ấy, Thánh Phaolô đặc biệt lưu ý đến việc tha thứ cho nhau. Ngài kêu gọi các phần tử trong gia đình hãy tha thứ cho nhau theo gương và theo mức độ của chính Chúa Giêsu: “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”.

    Và để có thể thực hiện các đức tính ấy, phải có một nhân đức làm nền, đó là đức yêu thương.

     

    4. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

     

     

    5. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

    Câu chuyện

    Một cha sở già kia có nhiều kinh nghiệm thường khuyên các đôi tân hôn như sau: “Khi các con thấy trong nhà sắp xảy ra cãi vã, các con hãy nói với nhau: “Để sáng mai rồi hãy gây gổ”.Sáng hôm sau các con sẽ thấy rằng việc hôm qua thật là nhỏ nhoi không đáng gây gổ chút nào. Khi các con sắp có chuyện cãi vã, chúng con hãy ngậm hoài một ngụm nước lạnh cho đến khi ngụm nước nóng lên. Rồi cứ tiếp tục ngậm ngụm nước khác. Làm như thế các con sẽ bớt được những xô xát đổ vỡ trong gia đình (Trích “Phúc”).

    Suy niệm

    Gia đình Thánh gia Nadarét nên gương mẫu mực cho mọi gia đình trên thế gian, cho mọi nền văn hóa như Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã khẳng định: “Gia đình Thánh gia Nadarét thật sự là “nguyên mẫu” cho tất cả các gia đình Kitô hữu được hiệp nhất trong Bí tích Hôn nhân. Gia đình này được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Hy lễ Tạ ơn, được mọi người thực thi ơn gọi đặc biệt và sứ vụ trở nên một tế bào sống động không chỉ cho xã hội nhưng còn của Giáo hội, đó là dấu chỉ và là phương tiện hợp nhất cho toàn nhân loại” (Bài giảng Lễ Thánh gia năm 2006).

    Gia đình Giuse, Maria và Hài nhi Giêsu đối diện mọi gian nan trong cơn khốn khó sự truy bức của Hêrôđê bạo chúa. Vượt mọi sóng gió, Thánh gia trọn vẹn trở về Nadarét.Trước những hiểm nguy đe doạ tính mạng Hài nhi Giêsu, thánh Giuse và Đức Maria đã lập tức đưa Con lên đường rời khỏi quê hương yêu dấu, đến tị nạn nơi vùng đất Ai Cập, nơi đôi vợ chồng trẻ này gian nan vất vả cùng bao nỗi lo lắng đầy nơi tâm hồn, nhưng Giuse và Maria luôn đi trong thánh ý Thiên Chúa như thuở ban đầu Giuse đã tuân hành khi đón Maria về nhà mình (x. Mt 1,18-25). Còn Đức Maria vẫn giữ vững niềm tin với trọn xác hồn, suy niệm mọi biến cố đã xảy ra như một lòng xác tín vào Thiên Chúa như ngài đã đáp với sứ thần Gabriel: Xin vâng (x. Lc 1,26-38).

    Tin Mừng hôm nay, đưa chúng ta cảm nghiệm sự thật trọng tâm của gia đình chính là “Hài nhi”- trung tâm cho mọi quyết định, mọi lựa chọn, mọi hành vi của gia đình. Vì Hài nhi Giêsu, Giuse và Maria cất bước lánh nạn sang Ai Cập. Hình ảnh đó mời gọi mỗi thành viên gia đình từ bỏ mọi quyền lợi bản thân để bao bọc con trẻ.Chính “Hài Nhi” khi được đón nhận với tình yêu thương quảng đại đã làm triển nở cách hài hòa và bền vững mái ấm gia đình. Sự từ bỏ lớn nhất đó, là hòa mình vào tình yêu cho nhau. Vợ hòa chồng thuận thương yêu nhau làm cho gia đình hạnh phúc, môi trường gieo giống tình thương cho con cái và gặt hái trên nhân cách của chúng:Vợ chồng là nghĩa tào khang

    Chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui

    Sinh con mới ra thân người

    Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.

    Lời dạy của thánh Phaolô: “Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ” (Cl 3,19). Ngài khuyên các thành viên trong gia đình: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại... chịu đựng và tha thứ... và trên hết mọi sự, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14).

    Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, gia đình đang bị đe dọa từ nhiều phía: những trào lưu xã hội đề cao sự tuyệt đối cá nhân đe dọa hạnh phúc gia đình, những khó khăn xuất phát từ nội tại khác biệt của mỗi thành viên làm cho gia đình thiếu hiệp nhất. Tất cả như đang họa lên hình ảnh gia đình Thánh Gia đang cơn bách hại giữa đời sống thường ngày.

    Sự bền vững không chỉ nhờ sự nỗ lực của con người mà còn trong sự thánh hóa của Thiên Chúa, như Maria và Giuse đã luôn bước đi trong Thiên ý. Một Thiên ý diễn tả sự kết hiệp giữa con người và Thiên Chúa, trong chính Thiên Chúa giữa các thành viên trong gia đình với nhau như lời mời gọi của Chúa Giêsu sống lưu lại trong tình yêu của Ngài và cùng chia sẻ với gia đình: “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em; hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9).Bí quyết để một gia đình tràn ngập hạnh phúc là như Thầy trao cho nhau tình yêu “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).

    Ý lực sống

    “Tình yêu giữa cha và mẹ là nguồn gốc lớn lao cho cuộc sống an toàn của con cái và cũng dạy con cái về vẻ đẹp của tình yêu chung thuỷ và bền vững” (ĐGH Bênêđictô XVI).

    Tag:

    2025-12-28