Tôi ban sự sống đời đời cho chiên của tôi.
Bài đọc 1: Cv 13,14.43-52
Này đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
14 Ngày ấy, hai ông Phao-lô và Ba-na-ba rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát, hai ông vào hội đường ngồi tham dự.
43 Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
44 Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.”
48 Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
50 Nhưng người Do-thái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
Đáp ca: Tv 99,1-2.3.5 (Đ. c.3c)
Đ.Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
1Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,2phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ,
vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo.
Đ.Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
3Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế,
chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người,
ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
Đ.Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
5Bởi vì Chúa nhân hậu,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.
Đ.Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
Bài đọc 2: Kh 7,9.14b-17
Con Chiên sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
9 Tôi là Gio-an, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. 14b Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. 15 Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. 16 Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. 17 Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.
Tin mừng: Ga 10, 27-30
27 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.
28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
30 Tôi và Chúa Cha là một.”
Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 4 Phục sinh năm C
WHĐ (08/5/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của Chúa nhật 4 Phục sinh năm C theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
Số 754, 764, 2665: Đức Kitô là Mục Tử và là Cửa chuồng chiên
Số 553, 857, 861, 881, 896, 1558, 1561, 1568, 1574: Đức Giáo Hoàng và các giám mục như là những mục tử
Số 874, 1120, 1465, 1536, 1548-1551, 1564, 2179, 2686: Các linh mục như là những mục tử
Số 60, 442, 543, 674, 724, 755, 775, 781: Hội Thánh gồm có người Do Thái và dân ngoại
Số 957, 1138, 1173, 2473-2474: Sự hiệp thông của chúng ta với các vị Tử Đạo
Bài Ðọc I: Cv 13, 14. 43-52
Bài Ðọc II: Kh 7, 9. 14b-17
Phúc Âm: Ga 10, 27-30
|
Số 754, 764, 2665: Đức Kitô là Mục Tử và là Cửa chuồng chiên
Số 754. “Quả thật, Hội Thánh là chuồng chiên mà cửa vào duy nhất và cần thiết của chuồng chiên đó là Đức Kitô[1]. Hội Thánh cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã tiên báo Ngài sẽ là mục tử của đàn chiên đó[2], và những con chiên của đàn ấy, tuy do các mục tư phàm nhân chăn dắt, nhưng luôn được dẫn dắt và nuôi dưỡng bởi chính Đức Kitô, vị Mục tử nhân lành và Thủ lãnh các mục tử[3], Đấng đã hiến mạng sống mình cho các con chiên[4]”[5].
Số 764. “Quả thật, Nước Thiên Chúa sáng tỏ trước mặt mọi người trong lời nói, hành động và sự hiện diện của Đức Kitô”[6]. Ai đón nhận lời của Chúa Giêsu là đón nhận “chính Nước Thiên Chúa”[7]. Mầm mống và điểm khởi đầu của Nước Thiên Chúa là “một đoàn chiên nhỏ bé” (Lc 12,32), gồm những người được Chúa Giêsu đến triệu tập quanh Người và chính Người là mục tử của họ[8]. Những người đó họp thành gia đình đích thực của Chúa Giêsu[9]. Những ai Người đã quy tụ quanh Người, Người đã dạy cho họ một “cách hành động” mới, và cả một kinh nguyện riêng[10].
Số 2665. Kinh nguyện của Hội Thánh, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và việc cử hành phụng vụ, dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Giêsu. Mặc dù kinh nguyện đó chủ yếu dâng lên Chúa Cha, nhưng trong tất cả các truyền thống phụng vụ, vẫn hàm chứa những hình thức cầu nguyện dâng lên Đức Kitô. Một số Thánh vịnh, như hiện được thích ứng trong kinh nguyện của Hội Thánh, và Tân Ước, đặt vào môi miệng và khắc ghi trong tâm hồn chúng ta những lời khẩn nguyện dâng lên Đức Kitô: Lạy Con Thiên Chúa, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Chúa, Đấng Cứu độ, Chiên Thiên Chúa, Đức Vua, Con chí ái của Thiên Chúa, Con Đức Trinh Nữ, Vị Mục tử nhân lành, Sự Sống của chúng con, Ánh sáng của chúng con, Hy vọng của chúng con, Sự Phục sinh của chúng con, Bạn của loài người.
Số 553, 857, 861, 881, 896, 1558, 1561, 1568, 1574: Đức Giáo Hoàng và các giám mục như là những mục tử
Số 553. Chúa Giêsu ủy thác cho ông Phêrô một thẩm quyền đặc biệt: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời; dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). “Quyền chìa khoá” là quyền cai quản Nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh. Chúa Giêsu, “Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11) xác nhận nhiệm vụ đó sau khi Người phục sinh: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh. Chúa Giêsu ủy thác quyền này cho Hội Thánh qua thừa tác vụ của các Tông Đồ[11], và đặc biệt của ông Phêrô, người duy nhất Chúa minh nhiên trao phó chìa khóa Nước Trời.
Số 857. Hội Thánh có đặc tính tông truyền vì được đặt nền trên các Tông Đồ, và điều này được hiểu theo ba nghĩa:
– Hội Thánh đã và đang được xây dựng trên “nền móng là các Tông Đồ” (Ep 2,20)[12], là những chứng nhân đã được chính Đức Kitô tuyển chọn và sai đi[13];
– Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ngự trong Hội Thánh, Hội Thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn[14], kho tàng quý báu, những lời lành thánh nghe được từ các Tông Đồ[15];
– Hội Thánh tiếp tục được giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn bởi các Tông Đồ cho đến khi Đức Kitô trở lại nhờ những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử: Giám mục đoàn, “với sự trợ giúp của các linh mục, hợp nhất với Đấng kế nhiệm thánh Phêrô là mục tử tối cao của Hội Thánh”[16].
“Lạy Chúa là Mục Tử hằng hữu, Chúa không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các Thánh Tông Đồ, Chúa luôn che chở giữ gìn để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử nhân danh Con Chúa…”[17].
Số 861. “Để sứ vụ đã được ủy thác cho các ngài vẫn được tiếp tục sau khi các ngài qua đời, các Tông Đồ đã trao cho các cộng sự viên trực tiếp của mình, như trao một di chúc, nhiệm vụ phải hoàn thành và củng cố công trình các ngài đã khởi sự, khuyên nhủ họ lưu ý đến hết đoàn chiên mà trong đó Chúa Thánh Thần đã đặt họ chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa. Các ngài đã thiết đặt những người như vậy và quy định rằng sau đó, khi những người nay chết, thì những người đàn ông khác đã được thử thách sẽ lãnh nhận thừa tác vụ của họ”[18].
Số 881. Chúa đã đặt một mình ông Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, làm đá tảng của Hội Thánh Người. Người đã trao cho ông các chìa khóa của Hội Thánh[19]; và đặt ông làm mục tử của toàn thể đoàn chiên[20]. “Tuy nhiên, nhiệm vụ tháo gỡ và cầm buộc, đã được ban cho ông Phêrô, rõ ràng cũng đã được trao ban cho Tông Đồ đoàn, hợp nhất với đầu của mình”[21]. Nhiệm vụ mục tử này của thánh Phêrô và của các Tông Đồ khác thuộc về nền móng của Hội Thánh. Nhiệm vụ đó được tiếp tục bởi các Giám mục dưới quyền tối thượng của Giám mục Rôma.
Số 896. Vị Mục Tử nhân lành phải là gương mẫu và “khuôn mẫu” cho nhiệm vụ mục tử của Giám mục. Ý thức về những yếu đuối của mình, Giám mục “có thể cảm thông với những ai dốt nát và lầm lạc. Ngài không nên từ chối lắng nghe những kẻ thuộc quyền, mà ngài ân cần săn sóc như những người con thật của mình…. Còn các tín hữu phải gắn bó với Giám mục của mình như Hội Thánh gắn bó với Chúa Giêsu Kitô và như Chúa Giêsu Kitô gắn bó với Chúa Cha”[22].
“Tất cả anh em hãy vâng phục Giám mục, như Chúa Giêsu Kitô vâng phục Chúa Cha; hãy vâng phục linh mục đoàn như vâng phục các Tông Đồ; và hãy kính trọng các phó tế như kính trọng lệnh truyền của Chúa. Chớ gì không ai làm điều gì có liên quan đến Hội Thánh một cách tách biệt với Giám mục”[23].
Số 1558. “Việc thánh hiến Giám mục, cùng với nhiệm vụ thánh hoá, cũng trao ban nhiệm vụ giảng dạy và cai quản…. Rõ ràng là nhờ việc đặt tay và nhờ các lời thánh hiến, ân sủng của Chúa Thánh Thần được truyền thông và ấn tín thánh thiêng được in ấn, đến độ các Giám mục, một cách trổi vượt và có thể thấy được, đảm nhận các vai trò của chính Đức Kitô là Thầy, Mục tử và Thượng tế, và hành động trong cương vị của Người (in Eius persona agant)”[24]. “Nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho các Giám mục, các ngài trở thành những Thầy dạy đức tin, Thượng tế, và Mục tử thật sự và đích thực”[25].
Số 1561. Những điều trên đây giải thích tại sao bí tích Thánh Thể do một Giám mục cử hành lại có một ý nghĩa hết sức đặc biệt, xét như sự diễn tả một Hội Thánh quy tụ quanh bàn thờ, dưới sự chủ tọa của vị đại diện hữu hình của Đức Kitô, là Mục tử nhân lành và là Đầu của Hội Thánh Người[26].
Số 1568. “Tất cả các linh mục, được thiết đặt vào hàng linh mục nhờ việc truyền chức, liên kết mật thiết với nhau bằng tình huynh đệ do bí tích; nhưng cách đặc biệt trong một giáo phận, nơi các ngài được chỉ định phục vụ dưới quyền một Giám mục riêng, các ngài hợp thành một linh mục đoàn duy nhất”[27]. Tính duy nhất của linh mục đoàn được biểu lộ qua một tập tục phụng vụ, đó là trong nghi thức truyền chức linh mục, sau Giám mục, chính các linh mục cũng đặt tay [lên đầu vị tiến chức].
Số 1574. Cũng như trong các bí tích khác, nghi thức truyền chức có kèm theo một số nghi thức phụ. Tuy rất khác biệt trong những truyền thống phụng vụ khác nhau, nhưng cách chung, các nghi thức phụ này đều diễn tả nhiều khía cạnh của ân sủng bí tích. Trong nghi lễ La tinh, có những nghi thức khởi đầu gồm: việc giới thiệu và tuyển chọn tiến chức, huấn dụ của Giám mục, khảo hạch tiến chức, kinh cầu các Thánh; những nghi thức này xác nhận ứng viên được tuyển chọn đúng theo cách làm của Hội Thánh, và chuẩn bị cho hành vi long trọng là việc thánh hiến. Sau nghi thức truyền chức, còn có những nghi thức kèm theo để diễn tả và thực hiện cách biểu tượng mầu nhiệm vừa cử hành: đối với tân Giám mục và tân linh mục có việc xức dầu thánh, là dấu chỉ của việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần cách đặc biệt làm cho thừa tác vụ của các ngài được sinh hoa kết quả; việc trao cho tân Giám mục sách Tin Mừng, nhẫn, mũ và gậy như dấu chỉ cho sứ vụ tông đồ của ngài là rao giảng Lời Chúa, sự trung thành của ngài đối với Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Kitô, và nhiệm vụ của ngài là mục tử của đoàn chiên của Chúa; việc trao cho tân linh mục dĩa và chén thánh, là dấu chỉ của lễ vật của dân thánh[28] mà tân linh mục được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa; việc trao sách Tin Mừng cho tân phó tế là người đã lãnh nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô.
Số 874, 1120, 1465, 1536, 1548-1551, 1564, 2179, 2686: Các linh mục như là những mục tử
Số 874. Chính Đức Kitô là nguồn mạch của thừa tác vụ trong Hội Thánh. Chính Người đã thiết lập thừa tác vụ, và trao ban thẩm quyền, sứ vụ, phương hướng và mục đích cho thừa tác vụ trong Hội Thánh:
“Để dân Thiên Chúa được chăn dắt và luôn được tăng trưởng, Chúa Kitô đã thiết lập các thừa tác vụ khác nhau trong Hội Thánh của Người hầu mưu ích cho toàn thân. Thật vậy, các thừa tác viên, những người sử dụng quyền thánh chức, phục vụ các anh chị em mình, để mọi người thuộc dân Thiên Chúa … đạt tới ơn cứu độ”[29].
Số 1120. Thừa tác vụ có chức thánh hay “chức tư tế thừa tác”[30] là để phục vụ chức tư tế do bí tích Rửa Tội. Chức tư tế thừa tác bảo đảm rằng trong các bí tích, chính Đức Kitô hành động nhờ Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh. Sứ vụ cứu độ mà Chúa Cha ủy thác cho Chúa Con khi xuống thế làm người, được trao cho các Tông Đồ và qua các ngài cho những người kế nhiệm các ngài: những vị này lãnh nhận Thánh Thần của Chúa Giêsu để hành động nhân danh Người và trong cương vị của Người[31]. Như vậy, thừa tác vụ có chức thánh là sợi dây mang tính bí tích nối kết hành động phụng vụ với những gì các Tông Đồ đã nói và đã làm, và qua các Tông Đồ, với những gì Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch và nền tảng của các bí tích, đã nói và đã làm.
Số 1465. Khi cử hành bí tích Thống Hối, tư tế chu toàn thừa tác vụ của vị Mục tử nhân lành đi tìm chiên lạc, của người Samaritanô nhân hậu băng bó các vết thương, của người Cha chờ đợi đứa con hoang đàng và đón nhận nó khi nó trở về, của vị thẩm phán công chính không thiên vị ai, và xét xử vừa công bằng vừa hay thương xót. Tắt một lời, tư tế là dấu chỉ và là dụng cụ của tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Số 1536. Truyền Chức Thánh là bí tích qua đó, sứ vụ Đức Kitô đã ủy thác cho các Tông Đồ của Người được tiếp tục thực thi trong Hội Thánh cho đến tận thế: vì vậy, đây là bí tích của thừa tác vụ Tông Đồ. Bí tích này gồm ba cấp bậc: chức Giám mục, chức linh mục và chức phó tế.
Số 1548. Chính Đức Kitô hiện diện với Hội Thánh Người trong việc phục vụ của các thừa tác viên có chức thánh; Người hiện diện với tư cách là Đầu của thân thể Người, là Mục Tử của đoàn chiên của Người, là Thượng Tế của hy lễ cứu chuộc, là Thầy dạy chân lý. Đó là điều Hội Thánh muốn diễn tả khi xác quyết rằng vị tư tế, nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, hành động trong cương vị Đức Kitô là Đầu (in persona Christi Capitis)[32]:
“Cùng một vị Tư Tế là chính Đức Kitô Giêsu, còn thừa tác viên của Người thật ra đảm nhận cương vị thánh thiêng của Người. Bởi vì vị này, nhờ sự thánh hiến linh mục mà ông đã lãnh nhận, ông được đồng hoá với Vị Thượng Tế, và ông được quyền hành động với quyền năng và cương vị của chính Đức Kitô (virtute ac persona ipsius Christi)”[33].
“Đức Kitô là nguồn mạch mọi chức tư tế: vì vị tư tế của luật cũ là hình bóng của Người; còn vị tư tế của luật mới hành động trong cương vị của Đức Kitô”[34].
Số 1549. Nhờ thừa tác vụ thánh chức, nhất là của các Giám mục và linh mục, sự hiện diện của Đức Kitô với tư cách là Đầu Hội Thánh, trở nên hữu hình giữa cộng đoàn tín hữu[35]. Theo kiểu nói rất hay của thánh Ignatiô Antiôchia, Giám mục là typos tou Patros, như là hình ảnh sống động của Chúa Cha[36].
Số 1550. Sự hiện diện như vậy của Đức Kitô trong thừa tác viên không được hiểu là vị này đã được gìn giữ khỏi mọi yếu đuối của con người, khỏi tinh thần thống trị, khỏi sai lầm và khỏi cả tội lỗi. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần không bảo đảm cho tất cả các hành vi của thừa tác viên bằng cùng một cách thức. Khi thừa tác viên cử hành các bí tích, thì điều bảo đảm này được trao ban, nên thậm chí tội lỗi của thừa tác viên cũng không thể ngăn cản hiệu quả của ân sủng; còn trong nhiều hành vi khác, dấu ấn con người của thừa tác viên để lại những vết tích, không phải luôn luôn là dấu chỉ của sự trung thành với Tin Mừng và vì vậy những hành vi đó có thể làm phương hại đến sự sinh hoa kết quả trong việc tông đồ của Hội Thánh.
Số 1551. Chức tư tế này là chức tư tế thừa tác. “Nhiệm vụ đó, được Chúa trao phó cho các mục tử của dân Người, thật sự là một việc phục vụ”[37]. Nó hoàn toàn hướng tới Đức Kitô và hướng tới con người. Chức tư tế thừa tác hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô và vào chức tư tế duy nhất của Người, và được thiết lập vì con người và cộng đoàn Hội Thánh. Bí tích Truyền Chức Thánh thông ban “quyền thánh chức”, không là gì khác hơn là quyền năng thánh thiêng của Đức Kitô. Vì vậy, việc thực thi quyền này phải rập theo mẫu gương của Đức Kitô, Đấng vì yêu thương đã trở nên người rốt hết và là tôi tớ của mọi người[38]. “Chúa đã tuyên bố rõ ràng rằng việc chăm sóc đoàn chiên là bằng chứng tình yêu đối với Người”[39].
Số 1564. “Tuy không có quyền cao nhất của chức thượng tế và tùy thuộc các Giám mục trong khi thực thi năng quyền của mình, cac linh mục vẫn được liên kết với các Giám mục trong danh dự tư tế, và nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, các linh mục được thánh hiến theo hình ảnh Đức Kitô, vị Thượng Tế vĩnh cửu[40], để rao giảng Tin Mừng, hướng dẫn các tín hữu, và cử hành việc phụng tự thần linh với tư cách là những tư tế đích thực của Giao Ước Mới”[41].
Số 2179. “Giáo xứ là một cộng đoàn Kitô hữu nhất định được thiết lập cách bền vững trong Giáo Hội địa phương, và trách nhiệm mục vụ được ủy thác cho cha sở như là chủ chăn riêng của giáo xứ ấy, dưới quyền Giám mục giáo phận”[42]. Giáo xứ là nơi mọi tín hữu có thể tập họp để cử hành bí tích Thánh Thể mỗi Chúa nhật. Giáo xứ đưa dân Kitô hữu vào sinh hoạt thông thường của đời sống phụng vụ, và tập họp họ để cử hành phụng vụ, giảng dạy cho họ giáo lý cứu độ của Đức Kitô; thực thi đức mến của Chúa trong các công việc từ thiện và huynh đệ[43]:
“Bạn cũng có thể cầu nguyện ở nhà; nhưng quả thật, bạn không thể cầu nguyện như ở nhà thờ được, vì ở nhà thờ có đông người, đồng thanh kêu lên Thiên Chúa…. Ở nhà thờ còn có điều hơn nữa, đó là sự đồng tâm nhất trí, có dây liên kết của đức mến và kinh nguyện của các linh mục”[44].
Số 2686. Các thừa tác viên có chức thánh cũng là những người có trách nhiệm trong việc đào tạo cho anh chị em mình trong Đức Kitô biết cầu nguyện. Những người này, là các tôi tớ của vị Mục tử nhân lành, được truyền chức thánh để dẫn dắt dân Thiên Chúa đến các nguồn mạch sống động của việc cầu nguyện: đến Lời Chúa, phụng vụ, đời sống đối thần, đến “Ngày hôm nay” của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể[45].
Số 60, 442, 543, 674, 724, 755, 775, 781: Hội Thánh gồm có người Do Thái và dân ngoại
Số 60. Dân tộc phát sinh từ ông Abraham sẽ được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ, tức là dân được Ngài tuyển chọn[46], họ được gọi để chuẩn bị cho việc quy tụ trong tương lai mọi con cái Thiên Chúa trong sự duy nhất của Hội Thánh[47]; dân tộc này sẽ là gốc rễ mà các dân ngoại khi tin vào Thiên Chúa sẽ được tháp ghép vào[48].
Số 442. Trường hợp thánh Phêrô thì khác, khi ông tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”[49], bởi vì Chúa Giêsu đã long trọng trả lời ông: “Không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt l6,l7). Tương tự như vậy, khi đề cập đến cuộc hối cải của mình trên đường đi Đamas, thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Ngài. Ngài đã đoái thương mạc khải Con của Ngài cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Ngài cho các dân ngoại” (Gl 1,l5-16). “Lập tức, ông bắt đầu rao giảng Chúa Giêsu trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa” (Cv 9,20). Ngay từ đầu[50], điều này đã là trung tâm của đức tin tông truyền[51], đức tin mà thánh Phêrô, với tư cách là nền tảng Hội Thánh, đã tuyên xưng trước hết[52].
Số 543. Mọi người đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa. Nước này của Đấng Messia trước tiên được loan báo cho con cái Israel[53], nhưng hướng đến việc đón nhận mọi người thuộc mọi dân tộc[54]. Để vào Nước Thiên Chúa, cần phải đón nhận lời của Chúa Giêsu:
“Lời Chúa được ví như hạt giống gieo trong ruộng: ai nghe Lời Chúa với đức tin và gia nhập đàn chiên nhỏ của Đức Kitô, thì đã đón nhận chính Nước Người; rồi do sức của nó, hạt giống nẩy mầm và lớn lên cho tới mùa gặt”[55].
Số 674. Việc Ngự đến của Đấng Messia vinh hiển vào bất cứ lúc nào trong lịch sử tùy thuộc[56] vào việc Người được nhận biết bởi “toàn thể Israel”[57] mà một phần dân ấy còn cứng lòng[58] “không tin” (Rm 11,20) vào Chúa Giêsu. Thánh Phêrô nói với người Do Thái ở Giêrusalem sau lễ Ngũ Tuần: “Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Ngài xóa bỏ tội lỗi cho anh em. Như vậy, thời kỳ an lạc mà Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Ngài sai Đấng Kitô Ngài đã danh cho anh em, là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu còn phải được giữ lại trên trời, cho đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ của Ngài mà loan báo tự ngàn xưa” (Cv 3,19-21). Thánh Phaolô cũng nhắc lại điều đó: “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11,15). Việc gia nhập của đông đủ người Do Thái[59] vào ơn cứu độ của Đấng Messia, sau việc gia nhập đông đủ của các dân ngoại[60], sẽ làm cho dân Chúa đạt “tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13), trong đó, “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).
Số 724. Nơi Đức Maria, Chúa Thánh Thần làm tỏ hiện Con của Chúa Cha đã trở thành Con của Đức Trinh Nữ. Mẹ là bụi gai bừng cháy của cuộc Thần hiện tối hậu: chính Mẹ, được đầy tràn Chúa Thánh Thần, tỏ cho thấy Ngôi Lời trong xác phàm khiêm hạ của Người, và làm cho những kẻ nghèo hèn[61] và những của đầu mùa của các dân tộc[62] nhận biết Người.
Số 755. “Hội Thánh là thửa ruộng, hay cánh đồng của Thiên Chúa[63]. Trong cánh đồng đó, mọc lên cây ôliu cổ thụ mà gốc rễ thánh là các Tổ phụ, và nơi cây này, sự giao hoà giữa những người Do thái và các dân ngoại đã được và sẽ được thực hiện[64]. Hội Thánh được Nhà Làm Vườn thiên quốc trồng như một cây nho được tuyển chọn[65]. Đức Kitô là cây nho thật, ban sức sống và sự sinh sôi nảy nở các ngành, tức là chúng ta, những kẻ được ở trong Người nhờ Hội Thánh, và không có Người, chúng ta không thể làm gì được[66]”[67].
Số 775. “Trong Đức Kitô, Hội Thánh là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và dụng cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hợp nhất của toàn thể nhân loại”[68]: là bí tích của sự kết hợp mật thiết con người với Thiên Chúa: đó là mục đích đầu tiên của Hội Thánh. Bởi vì sự hiệp thông giữa con người bắt rễ trong sự kết hợp với Thiên Chúa, nên Hội Thánh cũng là bí tích của sự hợp nhất của nhân loại. Trong Hội Thánh, sự hợp nhất đó đã bắt đầu, bởi vì Hội Thánh quy tụ những người “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9); đồng thời, Hội Thánh là “dấu chỉ và dụng cụ” để thực hiện trọn vẹn sự hợp nhất này mà cho đến nay vẫn còn phải đạt tới.
Số 781. “Quả thật, trong mọi thời và trong mọi dân, bất cứ ai kính sợ Thiên Chúa và thực hành sự công chính đều được Ngài đón nhận. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn thánh hoá và cứu độ người ta riêng rẽ từng người một, không liên kết với nhau, nhưng Ngài muốn thiết lập họ thành một Dân, là dân nhận biết Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài một cách thánh thiện. Vì vậy, Ngài đã chọn dân Israel làm dân của Ngài, thiết lập với họ một Giao ước, giáo huấn họ dần dần, bằng cách biểu lộ chính mình Ngài và ý muốn của Ngài trong lịch sử của họ và thánh hiến họ cho Ngài. Tuy nhiên, tất cả những điều đó chỉ là chuẩn bị và hình bóng của Giao Ước mới và hoàn hảo, sẽ được ký kết trong Đức Kitô…. Đó là Giao Ước mới Đức Kitô đã thiết lập trong máu Người, Người kêu gọi những người Do thái và dân ngoại làm thành một Dân, liên kết nhau hướng về sự hợp nhất không theo xác thịt nhưng trong Thần Khí [69].
Số 957, 1138, 1173, 2473-2474: Sự hiệp thông của chúng ta với các vị Tử Đạo
Số 957. Hiệp thông với các Thánh. “Chúng ta không chỉ kính nhớ các Thánh trên trời vì gương sáng của các ngài, nhưng hơn thế nữa, còn để sự hợp nhất của toàn thể Hội Thánh trong Thần Khí được tăng cường nhờ việc thực thi đức mến huynh đệ. Thật vậy, cũng như sự hiệp thông giữa những người đi đường đưa chúng ta tới gần Đức Kitô hơn, thì sự liên kết với các Thánh cũng kết hợp chúng ta với Đức Kitô, tự nơi Người, với tư cách là nguồn mạch và là Đầu, tuôn chảy mọi ân sủng và sự sống của chính dân Thiên Chúa”[70]:
“Quả vậy, chúng ta tôn thờ Đức Kitô vì Người là Con Thiên Chúa; và chúng ta yêu mến một cách chính đáng các vị Tử Đạo, xét như là những môn đệ và những người bắt chước Chúa, vì sự hết sức tốt lành của các ngài đối với Đấng là Vua và Thầy của mình; ước gì chúng ta được là bạn đồng hành và đồng môn với các ngài”[71].
Số 1138. “Những ai được quy tụ” trong Đức Kitô tham dự vào việc phục vụ là ca ngợi Thiên Chúa và việc chu toàn kế hoạch của Ngài là: các Quyền thần trên trời[72], toàn thể thụ tạo (tượng trưng bằng bốn Con vật), các thừa tác viên thời Cựu và Tân Ước (24 Kỳ mục), dân mới của Thiên Chúa (144 ngàn người)[73], đặc biệt là các vị tử đạo “những người đã bị giết vì đã rao giảng lời Thiên Chúa” (Kh 6,9), và Mẹ chí thánh của Thiên Chúa (Người Phụ nữ[74]; Hiền thê của Con Chiên[75]), cuối cùng là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước, và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9).
Số 1173. Trong chu kỳ hằng năm, khi kính nhớ các Thánh tử đạo và các vị Thánh khác, Hội Thánh “công bố mầu nhiệm Vượt Qua” nơi các người nam và người nữ đó, là “những vị đã cùng chịu đau khổ và cùng được vinh hiển với Đức Kitô, và Hội Thánh trình bày cho các tín hữu những mẫu gương của các ngài, để lôi kéo tất cả đến với Chúa Cha nhờ Đức Kitô, và nhờ công nghiệp của các ngài, Hội Thánh nhận được những ơn lành của Thiên Chua”[76].
Số 2473. Sự tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin; đó là sự làm chứng cho đến nỗi phải chết. Vị tử đạo làm chứng cho Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, mà họ được liên kết với Người bằng đức mến. Vị tử đạo làm chứng cho chân lý đức tin và đạo lý Kitô giáo. Vị tử đạo chịu chết bằng hành vi của đức can đảm. “Hãy để tôi trở nên mồi ngon cho ác thú, nhờ chúng mà tôi được đến với Thiên Chúa”[77].
Số 2474. Hội Thánh hết sức quan tâm thu thập các kỷ niệm về những vị đã làm chứng cho đức tin của mình cho đến cùng. Đó là Hạnh các vị Tử Đạo. Các hạnh này là những văn thư lưu trữ về Chân Lý được viết bằng máu:
“Những lãnh địa trần gian và các vương quốc đời này không ích gì cho tôi. Đối với tôi, thà chết trong Đức Kitô Giêsu, còn hơn được thống trị các lãnh địa của trái đất này. Tôi tìm kiếm Người, Đấng đã chết cho chúng ta; tôi khao khát Người, Đấng đã sống lại vì chúng ta. Tôi sắp được sinh ra…”[78].
“Con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã xét con xứng đáng với ngày này và giờ này, để con được dự phần vào số các vị tử đạo…. Chúa đã thực hiện lời Chúa hứa, lạy Thiên Chúa, Đấng trung tín và không biết nói dối. Vì hồng ân này và vì tất cả mọi sự, con ngợi khen Chúa, con chúc tụng Chúa, con tôn vinh Chúa nhờ vị Thượng Tế vĩnh hằng trên trời là Chúa Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Chúa. Nhờ Người, con tôn vinh Chúa cùng với Người trong Chúa Thánh Thần, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen”[79].
Bài giảng Đức Thánh Cha - Chúa nhật 4 Phục sinh năm C
Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 4 Phục sinh năm C.
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 Phục sinh năm C (08/5/2022) - Nghe, biết và theo
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 4 Phục sinh năm C (12/5/2019) - Được Chúa Giêsu chọn để tiếp nối sứ mạng của Ngài
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 Phục sinh năm C (12/5/2019) – Mục Tử đích thực của Dân Chúa
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 4 Phục sinh năm C (17/4/2016) - Hãy luôn đặt trước mắt mẫu gương vị Mục Tử Nhân Lành
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 Phục sinh năm C (17/4/2016) - Chiên lắng nghe không phải bằng tai, nhưng bằng tâm hồn
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 4 Phục sinh năm C (21/4/2013) – Tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu như là thầy, tư tế và mục tử
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 4 Phục sinh năm C (21/4/2013) – Ơn gọi là ân sủng từ Chúa Cha
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 4 Phục sinh năm C (25/4/2010) – Lời cầu nguyện có khả năng gợi lên các ơn gọi
|
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Bài Tin Mừng cho thấy Ðức Giêsu yêu thương và dùng hết quyền năng mà Cha thông ban để bảo vệ đoàn chiên, đó là những người nghe và đi theo Chúa. Họ thuộc về Chúa và không có sức lực nào kéo họ đi mất được, vì Ðức Giêsu luôn ở bên cạnh, che chở và họ được sống đời đời với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hy sinh chịu chết để cứu chúng con khỏi chết đời đời và ban lại cho chúng con ơn làm con Chúa. Chúa là Mục Tử nhân lành luôn dẫn dắt, quan phòng và sẵn sàng tha thứ khi chúng con lỗi lầm. Xin cho chúng con thấy được Chúa yêu thương chúng con vô cùng để chúng con luôn trung thành tin yêu Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
I. VÀI ĐIỂM CHỦ GIẢI
1. Đức Giêsu, Đấng chăn chiên lành
Bản văn Chúa nhật này quá ngắn, cần đưa trở lại văn mạch tổng thể một chút. Vào dịp lễ Lều, sau khi chữa một người mù bẩm sinh và anh ta bị trục xuất khỏi hội đường, Đức Giêsu tỏ ra là một “'Đấng chăn chiên đích thực", “hiến tặng đời mình cho đàn chiên. “ (Ga 10.1 I) .
Giờ đây chúng ta trở lại lễ Cung Hiến, lễ kỷ niệm hằng năm ngày cung hiến đền thờ và bàn thờ thời Giuđa Macabê. Đức Giêsu đi đi lại lại nơi hành lang Salômôn (nơi mà sau khi Chúa về trời, các môn đệ thường tụ họp, Cv 5,12) Những người Do thái – từ ngữ chỉ chung các thù địch của Đức Giêsu, trong Tin Mừng Gioan – tụ tập chung quanh Đức Giêsu (đúng ra là “vây quanh Người” 10,22). Tin Mừng ghi: “Lúc đó là mùa đông": (Ga 10,22); nói thế để từ chi tiết, chúng ta dễ nghĩ tới “sự băng giá” của lòng người theo thánh Augustinô sẽ viết sau này: “Nếu ông là Đấng Cứu thế hãy nói huỵch toẹt cho chúng tôi biết đi”.
Những người vây quanh không nắm rõ nội dung từ Cứu thế, nên Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi, Người kêu gọi thính giả suy nghĩ về những công việc của một vị Cứu thế, nhất là việc chữa người mù từ bẩm sinh mới đây. A. Marchadour giải thích: “Các phép lạ được coi như những dấu chỉ nhờ đó mà nhận ra Đấng Cứu thế” Rồi, Người tiếp tục đề tài người chăn chiên, hình ảnh truyền thống của Đấng Cứu thế dòng dõi Đavit; ở đây, Người nhấn mạnh đến những con chiên mà Chúa Cha trao phó cho Người.
2. Làm một với Chúa Cha.
Và bây giờ đề tài cho tới lúc này chưa đề cập tới lần nào: sự thân mật với Chúa Cha: Cha tôi và tôi, chúng tôi là một” Một khẳng định xác lập cội nguồn sứ mệnh của Đức Giêsu. Tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu toàn bích bao bọc các con chiên đến nỗi không ai có thể cướp được một con nào. “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. “
Đối với người Do Thái, nói thế là quá quắt rồi. Phạm thượng! Ai lại dám xưng mình là Cứu thế và lại còn thân mật quá thế với Thiên Chúa. Họ lượm đá để ném Người. Họ nói: “ Ông chỉ là phàm nhân mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”.
Tác giả Tin Mừng kết thúc: “Nhưng Người đã thoát khỏi tay họ”. Tác giả như muốn mời chúng ta đọc đoạn này dưới ánh sáng của cuộc tử nạn trên thập giá và sự Phục sinh từ cõi chết. Với ánh sáng ấy, chúng la sẽ khám phá ra Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã hoàn tất tới cùng sứ mệnh của mình bởi tình yêu đối với các con chiên thế nào; trên con đường Sự sống nào, Người muốn đẫn đưa những ai nghe tiếng Người đi theo Người; Mối tình hiệp thông yêu thương nào với Chúa Cha mà Người muốn dẫn đưa chúng ta tham dự vào!
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
A. DẪN NHẬP
Chúa nhật thứ tư mùa Phục sinh của ba chu kỳ niên lịch phụng vụ được mệnh danh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Nghệ thuật Kitô giáo thuở xưa thường phác hoạ Đức Giêsu như Đấng Chăn Chiên Nhân lành. Hình ảnh người chăn chiên đã được mô tả trong Cựu ước về Thiên Chúa như là Đấng chăn dắt dân Người (Tv 22). Người Do thái cổ xưa là dân du mục, vì thế văn chương của họ là những sách Cựu ước cũng thường đề cập đến đời sống chăn nuôi, du mục. Chính Đức Giêsu cũng dùng những hình ảnh về chăn nuôi quen thuộc để dạy ta những chân lý thiêng liêng về đạo giáo.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã xưng mình là Chủ chăn. Ngài có đàn chiên để chăn dắt. Đàn chiên của Ngài có những đặc tính như Ngài đã tuyên bố: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10, 27). Đàn chiên của Ngài có những đặc tính khác với đàn chiên của những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái lúc bấy giờ. Những đặc tính đàn chiên của Ngài là: biết lắng nghe chủ chăn, nhận biết chủ chăn và bước theo chủ chăn.
Đức Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, không trực tiếp điều khiển đoàn chiên dưới thế này, Ngài dùng các vị đại diện trong Giáo hội là Đức Giáo hoàng, các Giám mục và các Linh mục mà hướng dẫn thay cho Ngài. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ: “Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy” (Lc 10, 16). Vì thế, nếu chúng ta đã gọi các vị lãnh đạo trong Giáo hội là chủ chăn, chúng ta có trách nhiệm phải yêu mến, thành tâm lắng nghe sự hướng dẫn của các ngài để đến với Chúa, và nhờ đó, sẽ được dẫn tới cuộc sống đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 13, 14.43-52
Một khúc quanh quyết định cuộc đời tông đồ của thánh Phaolô. Trước tiên Phaolô và Barnabê loan báo Tin mừng cho người Do thái tại Antiochia miền Pysidia, nhưng rồi các ngài đã phải sớm chấm dứt việc rao giảng vì người Do thái tỏ ra “ghen tức” khi thấy một số đông dân ngoại cũng quan tâm đến Tin mừng (Cv 13, 45).
Hai vị Tông đồ quyết định rời hội đường và dứt khoát đến với dân ngoại, không quên nhắc lại lời tiên tri về sứ mạng toàn cầu của Người Tôi tớ đau khổ (Cv 13, 47)
Do vậy, dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin mừng và tôn vinh Thiên Chúa. Lời Chúa được lan tràn ra khắp miền ấy.
+ Bài đọc 2: Kh 7, 9.14b-17
Trong một cuộc thị kiến, thánh Gioan tông đồ đã thấy một đoàn người thật đông đảo. Họ là dân Thiên Chúa đã khải hoàn. Đoàn người đông đảo này:
- Họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ.
- Họ đứng trước ngai Con Chiên, Đấng đã cứu độ muôn dân qua cái chết của Ngài.
- Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
+ Bài Tin mừng: Ga 10, 27-30
Đức Giêsu tự giới thiệu mình là một vị Mục tử, một vị Mục tử tuyệt vời. Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài bảo vệ và sẽ đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Vấn đề là: chúng ta có tin tưởng bước theo Ngài không?
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Bước theo vị Mục tử
I. ĐỨC GIÊSU LÀ MỤC TỬ
Bối cảnh
Bài Tin mừng hôm nay rất ngắn, được trích ra từ cuộc tranh luận với người Do thái trong dịp Lễ lều, nhân dịp kỷ niệm ngày thanh tẩy Đền thờ thời Maccabêô.
Đức Giêsu đang ở Giêrusalem trong dịp lễ này. Tại đây xảy ra cuộc tranh luận với người Do thái về vấn đề Người có phải là Đấng Thiên Sai không, và cuối cùng Người đã xưng mình là Con Thiên Chúa bằng cách tuyên bố rằng: Cha Người ở trong Người và Người ở trong Cha trong sự hiệp thông trọn vẹn đời sống và việc làm (Lc 10, 22-41).
Bài Tin mừng hôm nay là một phần trích trong cuộc tranh luận và ghi lại lời Đức Giêsu quả quyết Người đồng bản tính với Chúa Cha.
Trước khi trả lời dứt khoát Người đồng bản tính với Chúa Cha, Đức Giêsu tuyên bố sự khác biệt nhau giữa người Do thái và “chiên của Người”, tức là những kẻ tin theo Người.
Đối với người Do thái, những lời Người nói và những việc Người làm là các phép lạ, không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Ngược lại, chiên của Người là những người biết ngoan ngoãn đón nhận, vì họ không cần đến nhiều dấu lạ bên ngoài để làm điều kiện cho việc đi theo Người.
Như vậy, Đức Giêsu khẳng định Người là Mục tử và Người có đàn chiên để chăn dắt và Người đưa họ đến cuộc sống đời đời mà không ai có thể cướp khỏi tay Người được.
Hình ảnh người chăn chiên trong Cựu ước
Hình ảnh người chăn chiên không chỉ là một hình ảnh đẹp ở vùng thôn quê mà nó còn có ở trong Thánh kinh. Trong khắp vùng Đông phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai cập: “Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc” (Tv 78, 52).
Đavít, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Belem (1Sm 17, 34-35). Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Messia, Đavít mới, cũng được loan báo như một “Mục tử”: “Ta sẽ trỗi dậy một mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavít, tôi tớ của Ta” (Ed 34, 23).
Chăn nuôi súc vật từng bầy là nghề chính của dân Do thái. Các tổ phụ vĩ đại của họ từ Abraham, Isaác, Giacob, Maisen, Đavít… đều là mục tử.
Do đó, người Do thái đã diễn tả về Thiên Chúa như là một mục tử nhân hậu, luôn hết tình yêu thương đàn chiên (Tv 22; Gr 31, 10; Ed 24, 11-16). Và Đức Giêsu đã tự mạc khải như là một Mục tử tuyệt vời (Ga 10, 11-14). Rồi đi xa hơn nữa, Người đã bày tỏ cho nhân loại biết chính Người là Thiên Chúa (Ga 10, 27-30).
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA MỤC TỬ
Những đặc tính của vị Mục tử được tóm gọn trong câu nói của Đức Giêsu: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10, 27). Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người: nghe, biết và theo.
Chiên nghe tiếng người chủ chăn
Ngày nay, tại Palestine, cũng còn có thể chứng kiến được cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng chứng kiến 2000 năm qua. Cảnh những người mục tử Bédouin mang những đàn chiên của họ trở về nhà từ những cánh đồng cỏ khác nhau sau một ngày đi ăn cỏ.
Thường vào lúc hoàng hôn, các đàn chiên khác nhau cùng kéo về qui tụ ở một chỗ uống nước. Chúng trà trộn lẫn lộn với nhau từ 8 hay 9 đàn nhỏ trở thành một bầy chiên lớn. Mặc dù lẫn lộn chung với nhau nhưng những chủ chăn không hề lo sợ chiên bị lạc. Đến giờ ra về, mỗi chủ chiên thổi lên một tiếng gọi riêng biệt – một tiếng còi, tiếng tiêu, tiếng sáo, hay tù và – thì những con chiên trong đàn sẽ tự động rời khỏi đám đông theo đàn của mình mà về chuồng. Chúng tự biết chúng thuộc về đàn nào, chúng nghe tiếng gọi của người chủ chăn và đi theo. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27) (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 171).
Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng nơi tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10, 17) hay “Đức tin nhờ nghe: Fides ex auditu” (Ga 3, 2).
Chiên và chủ chiên biết nhau
Chiên rất thân thiện với chủ chăn. Khi đàn chiên đang nằm ngủ êm đềm, người chủ chiên có thể bước đi ngay giữa đàn chiên mà không gây rối loạn hay gây mất ngủ cho con nào cả. Trong khi đó chỉ một bước chân của người lạ mặt xâm nhập vào chuồng chiên đang lúc chiên nằm ngủ cũng đủ gây kinh hoàng và hoảng hốt cho cả đàn chiên. Dường như chiên đã coi người chủ chăn như một thành phần rất thân thuộc của chúng. Và sự liên hệ mật thiết phát triển dần dần đến độ chủ chăn có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên, tiếng kêu đau thương hay tiếng kêu hoan lạc. Chiên nghe lệnh của người chủ chăn để biết khi nào đi kiếm ăn hay lúc nào lên đường trở về nhà. Ngoài ra, người chủ chăn còn biết cả tên gọi và đặc tính của từng con chiên nữa.
“Biết” trong Kinh thánh, từ ngữ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự thân mật, sự hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thể xác… là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4, 1).
Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà là hiểu biết sâu xa, yêu thân tình đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
Sự biết chí tình chí thiết này thực sự đã được thể hiện với hai thánh nữ Catarina và Têrêsa Hài đồng Giêsu. Catarina là người mù chữ chỉ học nơi Thánh tâm Chúa Giêsu và trở thành tiến sĩ Hội thánh. Têrêsa cũng chẳng học trường nào, chỉ học nơi tình yêu Chúa Giêsu Hài Đồng, đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm tiến sĩ Hội thánh tháng 08/1997 trong đại hội giới trẻ tại Paris.
Chiên thì theo chủ chăn
Những người chăn bò thường đi sau đàn bò dùng roi quất lên mình bò để lùa chúng đi thành đàn với nhau. Đối với chiên thì hoàn toàn khác hẳn. Người mục tử luôn đi trước để hướng dẫn đàn chiên theo sau. Nếu người chăn chiên đi đàng sau đàn chiên giống như chăn bò, chiên sẽ chạy tán loạn vì không biết đường đi. Chúng muốn được hướng dẫn, được bảo vệ và che chở.
“Theo” đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do: đính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với Đức Giêsu mời gọi: “Hãy theo Ta” (Ga 1, 42).
Đi đâu cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng là từ bỏ như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy; như Matthêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa; như Mađalêna bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ, một cuộc tái sinh vào đời sống mới.
III. TÂM TÌNH VỊ CHỦ CHĂN
Tận hiến cho đoàn chiên
Người chủ chăn rất tha thiết với đàn chiên, họ coi đàn chiên như một phần trong thân thể mình. Họ không yên tâm khi một con chiên đi lạc. Họ không đành lòng bỏ con chiên bị thương mà không băng bó. Họ đã sẵn sàng vác chiên trên vai khi không đi được hoặc khi bị đi lạc.
Khi kẻ làm thuê trông coi con chiên, thì lũ chó sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là cứu thoát bản thân mình mà thôi. Người chủ tốt của đàn chiên không làm như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của chó sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.
Đức Giêsu, Chúa chiên nhân lành, Đấng đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng không phải theo lệnh Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến cho đoàn chiên để mang chúng về đồng cỏ của sự sống đời đời. Hình ảnh cha thánh Damien, tông đồ người hủi, đã nói lên tình thần tận hiến cho đàn chiên, những con người phong cùi xấu số bị bỏ rơi.
Chiến đấu bảo vệ đàn chiên
Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gờm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đàn vật mình khỏi thú dữ… gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1Sm 17, 34-35).
Đavít kể lại cho vua Saulê trước khi giết được tướng Goliat của quân Philitinh: “Hồi tôi tớ bệ hạ chăn chiên cho thân phụ, hễ sư tử hay gấu đực tha con chiên nào, tôi liền rượt bắt, đánh nó và cướp con chiên khỏi miệng nó. Nếu nó cự lại, tôi liền nắm lấy râu đánh và giết nó tức khắc. Tôi tớ bệ hạ đã giết sư tử cũng như gấu đực thì cũng sẽ thanh toán tên Philitinh không cắt bì này như vậy vì nó đã dám nhục mạ đạo quân của Thiên Chúa hằng sống” (1Sm 17tt).
Đavít đã nêu gương hy sinh, vật nhau với sư tử, với gấu đực, để cướp lại một con chiên bị đem đi. Đavít vì tha thiết với bầy chiên, nên không ngần ngại đánh nhau với sư tử và gấu đen để cướp lại chiên. Đức Giêsu khi nói: “Không ai cướp được chúng” đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người phải đương đầu trong cuộc khổ nạn, để đối phương “không cướp được” một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống mình vì chiên của Người (Ga 10, 12-15).
Không bỏ rơi đàn chiên
Người chăn chiên rất tha thiết với đàn chiên, lo lắng cho đàn chiên hết mình, không bao giờ để một con chiên nào bị bỏ rơi. Dụ ngôn con chiên lạc đã chứng tỏ điều đó: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất”. (Lc 15, 4-7)
Chung quanh chúng ta hay ngay trong đời sống chúng ta có những hiện tượng rời bỏ hàng ngũ, bất trung thường xảy ra, thì chúng ta nghĩ thế nào? Thưa đó là những hiện tượng tự nhiên, vì đó là mầu nhiệm của tự do. Nhưng một điều chúng ta cần biết đó là không khi nào Chúa ruồng bỏ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chúa. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại: dụ ngôn đứa con hoang đàng đã chứng tỏ điều đó (x. Lc 15).
Ban cho chiên sự sống đời đời
Con chiên đi theo chủ chăn thì sẽ được dẫn đến đồng cỏ xanh tươi đảm bảo sự sống. Cũng vậy, những ai thực sự đi theo Chúa, tức là để Chúa dẫn dắt, thì sẽ được bảo đảm đưa đến sự sống đời đời.
Sự sống này, một đàng không thể mất được, vì đã được chính Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống bảo đảm. Đàng khác, cũng không bị ai cướp đi được, vì một khi đã được Chúa dẫn dắt thì không còn sợ vấn đề Người không đủ khả năng chăm sóc và bảo vệ sự sống của đàn chiên nữa.
Trong một bài giảng, thánh Cyrillô thành Alexandria đã giải nghĩa câu “Ta ban cho chúng sự sống đời đời” như sau: Đừng hiểu sự sống này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có thể hiểu “sự sống” này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Người, các tín hữu được thông phần vào chính xác thịt Người, như lời Người phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời” (Ga 6, 54).
IV. NHIỆM VỤ CỦA ĐOÀN CHIÊN
Chúa Giêsu không thể trực tiếp hướng dẫn mọi Kitô hữu, nhưng Người đã dùng các vị đại diện là hàng giáo phẩm và giáo sĩ để thay quyền Chúa mà hướng dẫn. Vì Chúa đã nói với các tông đồ: “Ai nghe các con là nghe Thầy” (Lc 10, 16).
Chúng ta hãy đọc một đoạn mà công đồng Vatican II nói về các linh mục: “Thi hành chức vụ của Chúa Kitô là Đầu và là Chủ chăn theo phận vụ mình, các linh mục nhân danh Giám mục tụ họp gia đình Thiên Chúa như một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, và nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần các ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha. Để thi hành thừa tác vụ này cũng như các thừa tác vụ khác, các linh mục được trao ban quyền thiêng liêng để kiến thiết Giáo hội. Trong việc kiến thiết này, các linh mục phải theo gương Chúa Kitô mà đối xử rất nhân đạo với hết mọi người… (Sắc lệnh về Linh mục, số 4).
Chúng ta thường gọi những người lãnh đạo trong Giáo hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết: chính Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo hội, là Đức Giáo hoàng, các Giám mục, Linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, công tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo hội.
Một lần nữa chúng ta hãy lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy” (Lc 10, 16). Qua câu Kinh thánh này, chúng ta có thể khẳng định rằng vâng nghe các vị lãnh đạo trong Giáo hội là vâng nghe Chúa, và như vậy, đây là một nhiệm vụ không thể thiếu được, vì như người ta nói:
Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Cầu cho ơn Thiên Triệu
Mục đích của đời người Kitô hữu
là phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân,
qua đó, bản thân mình được phát triển.
Có nhiều con đường dẫn tới mục đích này.
Chúng ta không thể đi nhiều con đường cùng một lúc.
Người bạn trẻ bước vào tuổi trưởng thành
thấy mình đứng trước những lựa chọn.
Không phải chỉ là chọn trường, chọn nghề,
chọn người yêu, chọn nơi làm việc,
nhưng trước hết là chọn bậc sống.
Chúa muốn tôi theo bậc hôn nhân hay bậc tu trì?
Chúa muốn tôi lập gia đình, sống độc thân
hay làm linh mục, tu sĩ?
Tôi cần đặt cho mình những câu hỏi như thế,
vì đó là điều cần thiết cho hướng đi của đời tôi.
Khi chọn đúng bậc sống Chúa mời gọi,
tôi sẽ được hạnh phúc,
và làm cho nhiều người được hạnh phúc
Không nên so sánh các bậc sống với nhau.
Chỉ nên suy nghĩ xem,
với con người thực tế của tôi,
bao gồm những khả năng và giới hạn,
những khuynh hướng tự nhiên và hoàn cảnh gia đình,
Chúa muốn tôi sống bậc nào.
Các bậc sống đều tốt,
nhưng có bậc sống tốt hơn cho tôi.
Bậc sống tốt hơn và phù hợp với tôi hơn
sẽ là bậc sống giúp tôi phụng sự Chúa
và tha nhân hiệu quả hơn.
Chọn bậc sống là chọn con đường, chọn phương tiện.
Con đường đúng và phương tiện phù hợp
sẽ dễ dàng dẫn tôi đến mục đích của đời tôi.
Chọn bậc sống là chọn ơn gọi.
Có nhiều ơn gọi trong Giáo Hội:
ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ,
ơn gọi sống thánh hiến giữa đời hay ơn gọi hôn nhân.
Ơn gọi nào cũng là một tiếng gọi từ Thiên Chúa,
nhưng bản thân tôi phải nghe được
tiếng gọi rất riêng tư Chúa dành cho tôi,
và quảng đại đáp trả.
Để nghe được tiếng gọi này,
tôi cần trầm lắng và cầu nguyện.
Để đáp lại tiếng gọi này,
tôi cần được tự do thanh thoát,
không bị ràng buộc bởi bất cứ thụ tạo nào.
Mỗi năm Giáo Hội dành một Chúa nhật
để cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ.
Chúng ta cần nhìn nhân loại hôm nay
bằng cái nhìn của chính Đức Giêsu,
và để cho trái tim mình rung động như Ngài.
“Đức Giêsu thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương
vì họ lầm than, vất vưởng
như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36).
Hôm nay đám đông ấy vẫn còn.
Đám đông gần 100 triệu người Việt chưa tin Chúa Giêsu.
Đám đông khổng lồ dân Châu Á chưa đón nhận Tin Mừng;
Đám đông các bạn trẻ ta vẫn gặp ngoài đường phố,
trong trường học, nơi sở làm;
họ chăm chỉ ngồi suốt ngày ở quán cà phê, chơi game
hay tất bật trước hàng núi công việc và dự tính.
Đám đông những người bệnh tật, túng nghèo, neo đơn,
những người thất vọng, bị bỏ rơi, bị phản bội,
đang cần được ai đó chia sẻ, cảm thông
và nói cho họ nghe ý nghĩa của đau khổ họ đang chịu.
Đám đông những người thành tâm thiện chí
đang khắc khoải trước những mầu nhiệm của đời người.
Hôm nay đám đông ấy vẫn còn
và đông hơn xưa.
Đám đông vẫn là một tiếng gọi, một lời mời
cấp bách và thiết tha.
Tiếng gọi ấy vang lên trong lòng tôi,
đụng đến những ước mơ bình thường của tôi,
đụng đến trái tim khép kín của tôi,
đụng đến sự an nhàn và tiện nghi của tôi.
Tiếng gọi âm thầm của đám đông trở thành tiếng Chúa.
Chúa vẫn kêu gọi tôi xuyên qua nỗi khổ của anh em.
Tôi có chạnh lòng thương như Ngài không?
Giáo Hội cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục, tu sĩ
là để đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu:
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt
sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37).
Ơn gọi sống đời thánh hiến là một hồng ân
Chúa tặng ban cho Giáo Hội,
để Giáo Hội tiếp tục sống và được sống dồi dào.
Chúng ta phải cầu xin để cánh đồng thế giới
không bao giờ thiếu những thợ gặt lành nghề,
tận tâm và tận tụy với công việc
mở mang nước Chúa khắp mặt địa cầu.
Bầu khí của thế giới hôm nay có vẻ không thuận lợi
cho việc cổ võ ơn gọi làm linh mục, tu sĩ.
Thế giới văn minh, với tiến bộ của khoa học kĩ thuật,
cho người ta tiện nghi và dạy người ta hưởng thụ.
Mối bận tâm của con người bị đóng khung ở đời này.
Tầm nhìn của con người
bị giới hạn bởi những nhu cầu trước mắt,
lắm khi lại là những nhu cầu giả tạo.
Con người sống trong ồn ào, căng thẳng, vội vã,
nên không có thời gian lắng đọng,
để nghe được tiếng Chúa
vang lên từ sâu thẳm lòng mình.
Con người sống dư thừa, thoải mái
nên ngại hy sinh để sống cho một lý tưởng.
Con người mang đầu óc thực dụng
nên không thấy được những giá trị tinh thần.
Con người xa lạ với niềm tin
nên không hiểu được con đường Thập giá.
Nhưng thế giới hôm nay, hơn bao giờ hết,
lại cần sự có mặt của những người hiến dâng.
Qua cuộc sống độc thân khiết tịnh,
họ cho thấy một trái tim biết yêu nồng nàn,
một thân xác được dành để phục vụ.
Qua cuộc sống thanh thoát khỏi vật chất tiền bạc,
họ cho thấy một kho tàng lớn lao trên trời,
chỉ kho tàng này mới làm họ mãn nguyện.
Qua cuộc sống từ bỏ mình trong vâng phục,
họ cho thấy mình đã được giải phóng
khỏi cái tôi ích kỷ hẹp hòi,
không còn bị giam hãm trong những dự định riêng tư,
nhưng được tự do sống theo ý Chúa.
Thế giới và Giáo Hội đang cần những con người
dám yêu như Đức Giêsu, dám sống như Đức Giêsu,
để Đức Giêsu không phải là một nhân vật quá khứ,
nhưng là Đấng đang sống, đang hoạt động,
đang cúi xuống thế gian đau khổ,
để xoa dịu, băng bó vết thương con người.
Cần có thật nhiều hình ảnh Giêsu trong thế giới,
vì có vô số đám đông đang đói,
đói được nghe Tin Mừng,
đói cơm bánh và tình thương.
Cần có thật nhiều Teresa Calcutta
cho những người nghèo và người hấp hối.
Cần có thật nhiều Têrêsa Hài Đồng
để truyền giáo bằng những lời cầu nguyện và hy sinh bé nhỏ.
Cần có thật nhiều đôi tay của các nữ tu
để săn sóc trẻ em khuyết tật và người phong.
Cần có thật nhiều đôi chân của Phanxicô Xavier
để ra đi loan báo Tin Mừng cho khắp Á Châu.
Đồng lúa chín vàng, mênh mông, chờ người gặt hái.
Biển cả bao la đang vẫy gọi các bạn trẻ ra khơi.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho những thanh niên thiếu nữ
đang quảng đại bước theo một tiếng gọi từ trên cao.
Ước gì hạt giống Chúa đã gieo trong lòng họ
được nảy mầm và sinh nhiều hoa trái.
Ước gì mỗi gia đình, mỗi giáo xứ
trở nên nơi sản sinh và nuôi dưỡng biết bao ơn gọi.
Câu hỏi gợi ý
1. Theo ý bạn, thế giới hôm nay có cần sự hiện diện và hoạt động của các linh mục, tu sĩ không? Hãy chia sẻ về một linh mục hay nữ tu có ảnh hưởng lớn trên đời bạn.
2. Theo bạn, Giáo Hội phải làm gì để có nhiều bạn trẻ hăng hái đáp lại tiếng Chúa, sống ơn gọi linh mục, nữ tu?
3. Theo bạn, làm sao biết mình được Chúa mời gọi để trở nên một linh mục hay nữ tu?
Lời nguyện
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,
đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy
đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay
những ứơc mơ lón lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ
biết xây dựng hạnh phúc và tương lai của mình
bằng cách yêu tha nhân với trái tim rộng mở.
Ươc gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,
cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương,
thấy được những mất mát của bao người đau khổ,
và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ
để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giesu,
sống như Ngài đã sống
và tiếp tục làm những gì
Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha
gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con,
thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội,
để tất cả trở thành những môi trường tốt
giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha.
Amen.
KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI
Chúng ta đang ở giữa mùa Phục Sinh.
Có những Kitô hữu coi sự phục sinh của Chúa Giêsu
là tột đỉnh, là hoàn tất trọn vẹn, chẳng phải chờ gì nữa.
Chúng ta hay quên một câu trong Kinh Tin Kính:
“Và Người sẽ trở lại trong vinh quang
để phán xét kẻ sống và kẻ chết.”
Bao lâu Chúa chưa trở lại, chúng ta còn phải đợi trông.
Kitô hữu vẫn sống trong một Mùa Vọng kéo dài.
Thời gian đợi trông cũng là thời gian chiến đấu,
thời gian của khách hành hương đi trong hoang địa.
Trên thập giá, Chúa phán: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19, 30).
Chúa hoàn tất sau khi đã chiến đấu và chiến thắng,
nhưng ta chưa hoàn tất ngày nào ta còn sống trên đời.
Ta vẫn phải phấn đấu đi đường hẹp và qua cửa hẹp.
Con đường đời của người kitô hữu không hề dễ đi,
vì đó là con đường của Thầy Giêsu, Con Thiên Chúa,
phải qua đau khổ để vào vinh quang (x. Lc 24, 26).
Con đường ấy cũng đầy hiểm nguy, cám dỗ và thử thách.
Đàn chiên của Người Mục tử Giêsu
không chỉ an toàn thảnh thơi đi trên cỏ xanh,
mà còn phải đối mặt với nhiều kẻ thù hung hãn.
Kẻ thù ấy là sói, là trộm cướp, là người lạ (Ga 10, 1.2.5),
đôi khi là người chăn thuê, chẳng lo cho chiên (Ga 10, 13).
Những kẻ thù chỉ muốn làm đàn chiên tan tác,
sói dữ chỉ muốn chộp lấy chiên để ăn thịt.
Mục Tử Giêsu bảo vệ đàn chiên của mình.
Ngài coi đàn chiên ấy quý hơn mạng sống,
nên Ngài làm điều mà người chăn thuê không dám làm,
đó là hy sinh mạng sống mình cho chúng (Ga 10, 17.18).
Đức Giêsu đã chết cho đàn chiên.
Cái chết của Ngài không làm chiên tan tác vì mất chủ,
trái lại đã quy tụ tất cả nên một đàn chiên duy nhất.
Vì đàn chiên còn bị tấn công mãi cho đến tận thế,
nên Chúa Giêsu phục sinh vẫn phải bảo vệ đàn chiên.
Cuộc chiến giữa Ngài và các kẻ thù diễn ra ác liệt.
“Không ai cướp giựt được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28).
Rõ ràng có sự giằng co giữa đôi bên.
Một bên giữ chặt, bên kia dùng sức cướp lấy.
Nhưng quyền năng của Đấng phục sinh mạnh hơn kẻ thù.
Ngài giựt lại chiên từ miệng sói.
Sói đem lại cái chết, còn Chúa Giêsu ban sự sống đời đời.
Không phải chỉ Chúa Giêsu mới là Đấng bảo vệ chiên.
Đàn chiên của Chúa Giêsu là do Cha ban cho (Ga 10, 29).
Chính vì thế Cha cũng là người bảo vệ:
“Không ai cướp giựt được chúng khỏi tay Cha tôi.”
Cả Cha và Con hợp tác bảo vệ đàn chiên khỏi kẻ thù.
Chắc chắn đàn chiên sẽ được an toàn,
nhưng an toàn này được mua bằng nỗ lực của Cha và Con.
“Tôi và Cha, Chúng Tôi là một” (Ga 10, 30).
Chúng Tôi cùng làm việc để gìn giữ đàn chiên.
Tuy nhiên, chiên cũng phải biết tự bảo vệ mình.
Chiên phải có khả năng nhận ra tiếng của chủ.
Chỉ khi có khả năng này, chiên mới không đi lạc,
hay đi theo những tiếng gọi mê hoặc, đầy quyến rũ
của những người lạ hay kẻ trộm kẻ cướp.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi… và theo tôi” (Ga 10, 27).
Trong thời buổi hiện tại, những tà phái mọc lên như nấm.
Có bao tiếng gọi lừa bịp, thoạt nghe giống tiếng chủ chiên,
khiến những chiên ngây thơ bị mắc bẫy.
Làm sao để đàn chiên có khả năng lột mặt nạ
những con sói dữ đội lốt chiên, đang làm chiên tán loạn.
Mỗi kitô hữu phải cộng tác với Thiên Chúa
để bảo vệ những chiên lạc lối trong nhóm mình.
LỜI NGUYỆN
Lạy Thầy Giêsu,
thật là khó khi phải giữ thái độ khoan dung
đối với những ai đang gây ra bất công và đau khổ
cho bao người trên thế giới và trong Giáo Hội.
Chúng con muốn bứng gốc sự dữ ra khỏi địa cầu,
và làm cho Giáo Hội chỉ gồm những người thánh thiện.
Nhưng lạy Thầy Giêsu,
Thầy lại muốn chúng con để cỏ lùng sống chung với lúa,
và để cả hai cùng lớn lên cho đến mùa gặt.
Chúng con hiểu tại sao ác nhân vẫn tung hoành,
và Xatan dường như thắng thế trong cuộc chiến hiện tại.
Thầy cho chúng con thấy khuôn mặt của Chúa Cha,
Đấng kiên nhẫn chờ con người hối cải,
Đấng cho mặt trời sáng trên kẻ dữ,
và mưa rơi trên ác nhân.
Thầy cũng cho chúng con thấy khuôn mặt của Thầy,
Đấng không bẻ gãy cây lau bị giập,
không làm tắt tim đèn còn khói.
Xin Thầy dạy chúng con biết cách chấp nhận
cuộc xung đột kéo dài đến tận thế
giữa con cái ánh sáng và con cái tối tăm,
giữa lúa tốt và cỏ lùng.
Và xin cho chúng con tin rằng
chiến thắng cuối cùng
sẽ thuộc về ánh sáng và sự thiện,
công lý và tình yêu.
5. Suy niệm (song ngữ)
Bài Đọc I: Tông Đồ CV 5,27-32.40-41
II: Khải Huyền 5,11-14
4th Sunday of Easter
Reading I: Acts 13:14,43-52
II: Rev 7:9,14-17
Gospel
John 10:27-30
27 My sheep hear my voice, and I know them, and they follow me;
28 and I give them eternal life, and they shall never perish, and no one shall snatch them out of my hand.
29 My Father, who has given them to me, is greater than all, and no one is able to snatch them out of the Father's hand.
30 I and the Father are one."
|
Phúc Âm
Gioan 10,27-30
27 Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.
28 Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta.
29 Điều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta.
30 Ta và Cha Ta là một".
|
Interesting Details
· The context. Jesus was at the temple in the winter, at the feast of Hanukkah, which celebrated the reconsecration of the temple in 164 BC after a Jewish revolt against the Syrian domination. In v. 24 of this chapter, the Jews asked whether Jesus was the Messiah, meaning whether he would deliver them from foreign dominion again. What Jesus said here did not satisfy them, so they wanted to stone him (v. 31).
· Shepherd was a title commonly used for the king or ruler of the people in ancient Mesopotamia and also in Israel. God Himself is called the Shepherd of Israel (Gen. 48:15, Ps. 28:9, etc.)
· "My sheep hear my voice" (v. 27). Few people had their own sheep-pen, so different shepherds put their sheep together in the same pen each evening. Next morning, each shepherd would call his own sheep.
· "I give them eternal life" (v. 28). Jesus is a special shepherd. Not only he knows and feeds his sheep, but he also gives them eternal life; not only a life, but "have [life] to the full" (Jn 10:10).
· "From my Father's hand no one can snatch away" (v. 29). This supreme power shows that the Father is God, because the souls are in God's hand (Wisdom 3:1) and no one can snatch them from God's hand (Isaiah 43:13). So Jesus is the Son of God. Furthermore, he is also God, and has the same power to protect souls.
· "The Father and I are one" (v. 30). This short verse expresses clearly he unity of power and operation, and led to the 4th-century Church doctrine of one divine nature in the Trinity.
· The unity in verse 30 also binds all people together: "that they may be one, even as we (Jn 17:11)
|
Chi Tiết Hay
· Bấy giờ là mùa đông, Đức Giêsu ở trong đền thờ vào dịp kỵ niệm lễ Cung Hiến Đền Thờ. Lễ này bắt nguồn từ cuộc nổi dậy chiến thắng của dân Do thái chống lại sự đô hộ của người Syria xảy ra hồi năm 164 trước Tây Lịch. Trong câu 24 của chương này, người Do Thái hỏi Đức Giêsu phải chăng Ngài là Đấng Mêsia, nghiã là Ngài có phải là người sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ hay chăng. Lời giải đáp của Đức Giêsu ở đây không làm cho họ thoả mãn nên họ định ném đá Ngài (c.31).
· Người chăn chiên là một danh hiệu thường được dùng cho vua hoặc lãnh tụ của dân vùngMesopotamia xưa kia và cả Do Thái nữa. Thiên Chúa cũng được gọi là Chủ chiên của dân Do Thái (Sáng Thế 48:15, TV 28:9, vv.)
· "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta" (c.27). Ít người chăn chiên có một chuồng chiên riêng của mình, họ thường chung nhau nhốt chiên vào một chỗ vào buổi tối. Sáng hôm sau, mỗi người đến gọi riêng những con chiên của mình ra.
· "Ta cho chúng được sống đời đời" (c.28). Đức Giêsu là một người chăn chiên đặc biệt. Không những nuôi nấng và biết con chiên của mình, Ngài còn cho chúng sự sống đời đời; không phải chỉ một cuộc sống, nhưng là "cuộc sống dồi dào" (10:10).
· "Không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta" (c.29). Sức mạnh tuyệt đối này trong Kinh Thánh Cựu Ước dành riêng cho Thượng Đế, như trong câu mọi linh hồn đều ở trong bàn tay Chúa (Khôn Ngoan 3:1) và không ai cướp được chúng khỏi bàn tay Chúa (Isaia 43:13). Vậy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài cũng là Thiên Chúa, và cũng có sức mạnh như thế để bảo vệ mọi linh hồn.
· "Ta và Cha Ta là một" (c.30). Câu văn ngắn này nói một cách rõ ràng sự hiệp nhất trong quyền năng và hành động, và từ đó Giáo Hội đã ban bố tín điều Chúa Ba Ngôi.
· Sự hiệp nhất, trong câu 30, cũng nối kết mọi ngưòi lại với nhau: "để họ nên một như chúng ta" (17:11).
|
One Main Point
The Trinity binds us together in love and gives us a full, eternal life.
|
Một Điểm Chính
Chúa Ba Ngôi nối kết chúng ta lại trong tình thương và cho chúng ta sự sống dồi dào và vĩnh cửu.
|
Reflections
1. Do I listen to the Lord's call so that I can follow Him and he can feed me?
2. Looking at my life, do I see how the Lord has fed and led me?
3. Am I united with all people, rich and poor, in all nations? Why, or why not?
|
Suy Niệm
1. Tôi có lắng nghe lời mời gọi của Chúa để có thể theo Ngài và nhờ đó được Ngài nuôi sống?
2. Nhìn lại cuộc sống của tôi, tôi có nhận ra Chúa đang nuôi nấng và dẫn dắt tôi chăng?
3. Tôi có hợp nhất được với mọi người, giàu cũng như nghèo, không phân biệt quốc gia? Lý do tại sao?
|