HÔN NHÂN CỦA NGÔN SỨ HÔ-SÊ VÀ BÀ GÔ-ME:
BIỂU TƯỢNG CỦA TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỨC CHÚA VÀ DÂN ÍT-RA-EN
(Phân tích bản văn Hs
2,4-25)
Giuse Tuân Vũ Chí
Thành, S.J.
NỘI DUNG BẢN VĂN (Hs 2,4-25)[1]
4Hãy đưa mẹ các ngươi ra toà, đưa nó ra toà đi!
Vì nó không phải là vợ của Ta, và Ta không phải là chồng của
nó.
Những vật đĩ thoã trên mặt nó,
và những dấu ngoại tình trên ngực, nó đều phải vứt bỏ.
5Nếu không, Ta sẽ lột trần nó ra,
và để nó như ngày mới lọt lòng mẹ.
Ta sẽ biến nó thành sa mạc hoang vu,
cho nó trở nên đất khô khan cằn cỗi, và làm cho nó chết
khát.
6Con cái nó, Ta sẽ không thương,
vì chúng là những đứa con sinh ra do đĩ điếm.
7Mẹ chúng quả thật đã làm điếm,
kẻ mang thai chúng đã thất tiết rồi,
vì nó đã nói: “Tôi đi theo các tình nhân của tôi,
chính họ cho tôi bánh và nước,
cho len, cho vải, cho dầu ăn, cho thức uống.”
8Bởi thế,
này Ta sẽ lấy gai góc chặn đường nó
lại,
sẽ dựng một bức tường để nó không thấy được lối đi.
9Nó sẽ chạy theo các tình nhân của nó mà không gặp,
sẽ tìm kiếm chúng mà chẳng thấy.
Bấy giờ nó mới nói: “Tôi phải trở về
với người chồng đầu tiên của tôi,
vì hồi ấy tôi sướng hơn bây giờ.”
10Nó đâu biết rằng chính Ta đã ban cho nó
lúa mì, rượu mới với dầu tươi,
cũng chính Ta đã tặng cho nó bạc vàng nhiều vô kể,
vậy mà chúng lại đem chế tạo đồ dâng kính Ba-an!
11Bởi thế,
vào mùa gặt, Ta sẽ đòi lại lúa mì của
Ta.
Vào thời cất rượu, Ta sẽ lấy lại rượu mới của Ta.
Len và vải của Ta, Ta sẽ đòi lại hết:
nó sẽ chẳng còn gì để che tấm thân trần truồng của nó nữa.
12Giờ đây, trước mặt các tình nhân của nó,
Ta sẽ phơi bày ra cái đáng hổ thẹn của nó,
và không ai giựt được nó khỏi tay Ta.
13Ta sẽ chấm dứt mọi thú vui,
mọi ngày sóc, ngày hưu, ngày lễ, và mọi cuộc hội hè của nó.
14Ta sẽ phá tan vườn nho nương vả,
những thứ làm cho nó khoe khoang:
“Công tôi đi khách đó: các tình nhân đã trả cho tôi!”
Ta sẽ biến chúng thành bụi rậm, mặc cho dã thú gặm tan
hoang.
15Ta sẽ trừng phạt nó vì những ngày của Ba-an,
những ngày nó đốt hương thờ kính chúng,
những ngày nó đeo nhẫn, đeo kiềng
chạy theo đám tình nhân của nó,
còn Ta thì nó nỡ bỏ quên
– sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA.
16Bởi thế,
này Ta sẽ quyến rũ nó,
đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.
17Từ nơi đó, Ta sẽ trả lại vườn nho của nó,
biến thung lũng A-kho thành cửa khẩu hy vọng.
Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân,
như ngày nó đi lên từ Ai-cập.
18Vào ngày
đó –sấm ngôn của ĐỨC CHÚA–
ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi”, chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa.
19Ta sẽ không cho nó mở miệng gọi tên thần Ba-an,
chẳng còn ai nhớ đến các thần này mà gọi tên chúng nữa.
20Trong
ngày đó, vì dân Ta,
Ta sẽ thiết lập một giao ước với thú vật đồng hoang,
với chim chóc trên trời, với loài bò sát dưới đất :
Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ gươm đao,
chấm dứt chiến tranh trên toàn xứ sở,
và Ta sẽ cho chúng được sống yên hàn.
21Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu,
Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực,
trong ân tình và xót thương;
22Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành,
và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA.
23Vào ngày
đó, Ta sẽ đáp lại, –sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA–
Ta sẽ đáp lại trời, và trời sẽ đáp lại đất.
24Đất sẽ đáp lại lúa mì, rượu mới và dầu tươi,
và những thứ đó sẽ đáp lại Gít-rơ-en.
25Ta sẽ gieo trồng nó làm của riêng Ta trong
xứ sở,
sẽ chạnh thương con bé Lô Ru-kha-ma,
sẽ nói với thằng Lô Am-mi: “Ngươi là Am-mi”.
Còn nó sẽ thưa: “Thiên Chúa
của con!
Các ngôn sứ trong Kinh Thánh thường được biết đến như là những
con người công bố sứ điệp của Đức Chúa cho dân của Người. Tuy nhiên, điều mà có
lẽ ít ai để ý đến đó là cuộc đời của vị ngôn sứ cũng chính là một sứ điệp mà
Thiên Chúa muốn truyền đạt. Trong số họ, có những người đã thể hiện điều Chúa
muốn nói ngang qua chính tương quan rất éo le, thách đố nhưng cũng đầy tình
thương với người thân trong gia đình. Điển hình nhất là ngôn sứ Hô-sê. Bởi lẽ
chính hôn nhân của ông và vợ là bà Gô-me đã ẩn dụ một thông điệp về tương quan
của Đức Chúa với dân Ít-ra-en.
Trước khi phân tích nội dung chính của đoạn Hs 2,4-25, chúng
ta cần xác định giới hạn và sức năng động của cấu trúc bản văn này.
GIỚI HẠN VÀ SỨC NĂNG ĐỘNG CỦA BẢN VĂN (Hs
2,4-25)
Giới
Hạn Bản Văn
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng 3 chương đầu của sách Hô-sê
nói về tương quan gia đình với những yếu tố khủng hoảng và chữa lành. Trong khi
đó, các chương 4-14 mang nội dung chính yếu nói về những vấn đề xoay quanh việc
dân Ít-ra-en bất trung với Chúa, vương quốc bị sụp đổ hoàn toàn nhưng khi dân
biết ăn năn thì vẫn được Chúa thứ tha.
Trong khối nội dung 3 chương đầu, người ta lại thấy chương 1
được trình bày ở thể văn trần thuật. Trong đó, nhân vật chính được nêu đích
danh là Hô-sê (tức là ngôi thứ 3 số ít) đón nhận lời Đức Chúa. Tương tự như thế,
thể văn ở chương thứ 3 cũng là trần thuật; còn nhân vật chính khi ấy được diễn
tả ở ngôi thứ nhất số ít, “tôi”. Riêng ở chương 2, thể văn được dùng là thơ và
văn chương hùng biện. Thêm vào đó, giọng văn ở Hs 1,9 còn là văn kể. Ngay sau
đó Hs 2,1 lại mang nét tương lai (והיה
= become, it will be).[2] Như thế, ba chương đầu có thể
được phân tách thành 3 phần riêng biệt; mỗi phần ứng với mỗi chương.
Nhìn tổng quát chương 2, người ta hình dung đây có lẽ là một
khối nội dung liền mạch. Tuy vậy, phần nội dung 3 câu đầu có thể được tách biệt
với các câu 4-25.[3] Mặc dù cả hai câu 3 và 4 đều
bắt đầu bằng một động từ ở thể cầu khiến (imperative) nhưng cung giọng và sắc
thái của hai câu này là hoàn toàn khác biệt nhau. Trong khi ở cc.1-3, cung giọng
được diễn tả nhẹ nhàng, đầm ấm; thì sang câu 4, cung giọng thay đổi đột ngột
thành nghiêm trọng, gay gắt và bực bội (“lôi ra tòa”). Hơn nữa, nơi c.4, xuất
hiện một nhân vật với danh xưng “Ta” (đại diện cho Đức Chúa, qua môi miệng người
chồng, như sẽ được phân tích ở phần sau của bài viết) trong vai trò chủ ngữ. Dễ
nhận thấy, ở 3 câu đầu, hình ảnh của nhân vật “Ta” chỉ được nhận thấy ngầm
trong vai trò người kể, hoặc chỉ xuất hiện ở dạng sở hữu cách trong tên gọi của
những đứa con, tức là vai trò túc từ trong câu (לֹא־עַמִּי/
עַמִּי, tức là Không-phải-dân-Ta/ Dân-Ta). Đối lại, ở câu 4 này, hình ảnh
nhân vật “Ta” được nhận diện cách minh nhiên trong bản văn với vai trò chủ thể
hành động trong câu (“Ta không phải là chồng của nó”). Như thế, chương 2 có thể
được chia thành 2 phần: cc.1-3 và cc.4-25.
Với việc xác định giới hạn bản văn Hs 2,4-25 như thế, giờ
đây chúng ta sẽ phân tích đôi chút về yếu tố nội tại xây dựng nên cấu trúc của
bản văn này.
Cấu
Trúc Và Sức Năng Động Của Bản Văn
Nội dung đoạn Hs 2,4-25 diễn tả rõ hai góc nhìn tiêu cực và
tích cực về sự trung tín với hôn ước vợ chồng. Điều đó thể hiện qua hai cung giọng
đau buồn và hy vọng. Một cách cụ thể, cc.4-15 diễn tả một bầu không khí căng thẳng,
đau khổ. Tuy nhiên, ngay sau đó từ c.16 trở đi, bản văn lại mô tả một khung trời
tình yêu tràn đầy hy vọng.
Khối nội dung đầu (cc.4-15) diễn tả khung cảnh đau buồn của
một mối hôn nhân tan vỡ. Có thể thấy, sau khi người chồng lên tiếng gay gắt kêu
“những đứa con” lôi bà vợ của mình ra hầu tòa (c.4a), ông liền gào thét trong
đau đớn, giận dữ, chối bỏ người vợ và muốn xử tội cô ta lẫn những đứa con do cô
sinh ra nếu cô không chịu bỏ thói lăng loàng của mình (cc.4b-6). Tiếp theo đó,
người chồng tố cáo những tội của người vợ với mức độ phạm càng ngày càng quá quắt
(cc.7.10). Tương ứng với những lời hạch tội là các hình phạt người chồng “bởi
thế” có thể áp dụng để đối xử với người vợ, cũng càng ngày càng nặng hơn
(cc.8-9.11-15). Khối này được kết thúc bằng câu “sấm ngôn của Đức Chúa”.
Ở khối nội dung tiếp theo (cc.16-25), giọng văn của cc.16-17
đột ngột trở nên mềm mỏng, lãng mạn để diễn tả khung cảnh chuẩn bị cho một giao
ước hôn nhân sắp được tái lập giữa Đức Chúa và dân Ít-ra-en.[4] Theo ngay sau đó, cc.18-22
mô tả nội dung của hôn ước, một cách rõ ràng giữa Đức Chúa với đối tượng dân
Ít-ra-en ở ngôi thứ hai và dẫn tới hệ quả tích cực của giao ước hôn nhân ấy
(cc.23-25). Hai khối bản văn cc.18-22 và cc.23-25 đều bắt đầu với cụm từ giống
nhau: “Vào ngày đó, sấm ngôn của Đức Chúa”.
Với những gì vừa trình bày, chúng ta có thể đưa ra sơ đồ tóm
tắt nội dung bản văn như sau:
Khối
|
Các câu
|
Dấu hiệu
|
Nội dung
|
cc. 4-15
|
4a
|
|
Khung cảnh đau buồn của một hôn nhân tan vỡ
Kêu những đứa con lôi người vợ ra tòa
|
4b-6
|
|
Lời chối bỏ vợ của người chồng đau khổ và án xử cả vợ lẫn
con nếu người vợ không chịu từ bỏ lối sống lăng loàng
|
7
|
|
Cáo tội người vợ
|
8-9
|
Bởi thế
|
Án phạt đề xuất cho tội trạng vừa nêu của người vợ
|
10
|
|
Cáo tội người vợ với những tình tiết tăng nặng
|
11-15
|
Bởi thế
|
Án phạt đề xuất cho tội trạng vừa nêu của người vợ
|
|
Sấm ngôn của Đức
Chúa
|
Kết thúc khối nội dung người chồng đau khổ lên án người vợ,
giọng văn tiêu cực
|
cc.16-25
|
16-17
|
Bởi thế
|
Chuyển đột ngột sang khung cảnh lãng mạn chuẩn bị cho hôn
ước giữa Đức Chúa với dân Ít-ra-en
|
18-22
|
Vào ngày đó, sấm
ngôn của Đức Chúa
|
Nội dung của hôn ước
|
23-25
|
Vào ngày đó, sấm
ngôn của Đức Chúa
|
Hệ quả của hôn ước
|
Những
Chú Ý Sơ Khởi
Trong khi đọc sách ngôn sứ Hô-sê, một số độc giả có thể có
những thắc mắc một số vấn đề liên quan đến sự sai khác về số câu trong các bản
dịch, bối cảnh lịch sử của dân Ít-ra-en mà bản văn nhắc tới, hay về các nhân vật
xuất hiện trong bản văn… Để tránh phần nào những thắc mắc ấy, trước khi đi vào
phân tích đoạn trích Hs 2,4-25, một số vấn đề sau đây có lẽ cần được lưu ý.
Điểm đầu tiên cần lưu ý là hầu hết các nhà nghiên cứu Kinh
Thánh nhìn nhận rằng sách Hô-sê là kết quả của công trình biên soạn lâu dài từ thời
vị ngôn sứ Hô-sê ở thế kỷ thứ VIII TCN kéo dài đến thời Hậu Lưu Đày. Có nhiều
giả thiết về các yếu tố cấu thành bản văn sách Hô-sê hiện tại. Tuy nhiên, một
điều chắc chắn rằng sách Hô-sê là một bản văn khó đọc bởi ngôn ngữ vùng
Ít-ra-en, miền Bắc Do Thái; lối hành văn cách ngôn và hiện trạng hư hoại nhiều
của các bản văn cổ. Do vậy, người viết chỉ có thể cố gắng phân tích bản văn dựa
vào lối đọc đồng đại mà thôi.
Điểm nữa cần lưu ý là những sai khác về việc đánh số câu,
chương của các bản dịch sách Hô-sê (bản Do Thái, Hy Lạp và bản La-tinh). Sự sai
khác này có thể được thấy ở 3 câu đầu chương 2 của bản Do Thái và Hy Lạp. Ba
câu ấy ứng với Hs 1,10-2,1 trong bản La-tinh. Trong bài này, người viết dựa vào
bản dịch của nhóm CGKPV, tức là bản Việt Ngữ được dịch theo nguồn bản Do Thái
và Hy Lạp.[5]
Bên cạnh đó, vì sách Hô-sê được thừa nhận là cấu thành qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau nên nội dung của sách cũng trải dài những biến
cố lịch sử của dân tộc Do Thái. Khoảng thời gian ấy kéo dài từ thời ngôn sứ Hô-sê
hoạt động, tức là khoảng cuối triều vua Giê-rô-bô-am (750-747 TCN), qua cuộc
chiến Si-rô – Eph-ra-im (734 TCN) và vương quốc Ít-ra-en sụp đổ (723 TCN)… mãi
cho đến sau thời kỳ Lưu Đày sang Ba-by-lon.
Sau cùng, cần để ý là nhân vật “Ta” trong bản văn Hs 2,4-25
có thể sẽ khiến người đọc phân vân rằng có phải đó là Đức Chúa hay chính là
ngôn sứ Hô-sê? Trong mạch văn, người đọc có thể đưa ra nhận định rằng thế nào
đi nữa thì nhân vật “Ta” có ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho chính Đức Chúa, xét
trong tương quan với dân Ít-ra-en. Thiết nghĩ, đây là cách hành văn lôi cuốn
người đọc vào câu chuyện như sẽ được khai triển thêm ở phần phân tích bản văn.
Với lưu ý vừa nêu, giờ đây chúng ta bước vào phân tích về ý
nghĩa của bản văn Hs 2,4-25 để phần nào thấy rõ hơn đề tài hôn nhân của ngôn sứ
Hô-sê với vợ là Gô-me ẩn dụ chính tương quan của Đức Chúa với dân Ít-ra-en.
PHÂN TÍCH BẢN VĂN
Cáo tội
người vợ và hình phạt người chồng có thể áp dụng (cc.4-15)
Tuyên
chối bỏ người vợ và nỗi đau khổ của người chồng (cc.4-6)
Các câu 4-6 mở ra cho người đọc khung cảnh đổ vỡ của một gia
đình. Trong đó, câu 4a diễn tả cảnh người chồng ở ngôi thứ 2 đang lớn tiếng kêu
những đứa con đưa của mẹ chúng ra tòa. Cụm từ “mẹ các ngươi” có thể cho người đọc
cảm nhận rằng nhân vật chồng không chỉ chối bỏ người vợ nhưng cũng muốn chối bỏ
những đứa trẻ. Tòa án ở đây được hiểu là nơi để xử lý vụ ly hôn của các nhân vật.
Trong phiên tòa này, bản văn không đề cập đến quan tòa nhưng chắc hẳn có nhân
chứng cho vụ việc là chính những đứa con vì chúng có mặt ở phiên tòa. Tuy
nhiên, việc để những đứa con làm chứng trong phiên tòa xử ly hôn của bố mẹ là
điều bất thường. Điều này càng làm tăng thêm tính bi kịch của một gia đình tan
vỡ.
Tiếp đến, câu 4b cho người đọc biết lý do các nhân vật trong
bản văn đưa nhau ra tòa và nỗi đau khổ, uất ức của người chồng. “Vì nó không phải
là vợ của Ta và Ta không phải là chồng của nó.” Câu nói này đã minh nhiên công
bố sự phân ly hôn nhân của hai vợ chồng. Thực ra, đây là công thức ly hôn theo
văn hóa của người Babylon và các dân tộc vùng Cận Đông.[6]
Theo đó, khi hai vợ chồng muốn ly hôn thì cùng nhau ra tòa án, trước mặt các
nhân chứng, họ công khai tuyên bố chối bỏ đối phương là vợ, chồng mình. Ở đây,
bản văn không đề cập gì đến chứng thư ly hôn như đòi buộc trong Đnl 24,1. Thường
thì khi ly hôn, người chồng sẽ đuổi người vợ ra khỏi nhà. Việc không nói đến chứng
thư ly hôn có lẽ muốn cho độc giả thấy rằng người chồng thực ra không có ý định
buộc người vợ ra khỏi nhà mình. Như thế đồng nghĩa với việc người chồng không
muốn bỏ vợ mà chỉ muốn răn đe và kêu gọi cô trở về sống đàng hoàng hơn.[7]
Mặc dù giọng văn ở câu 4a.b. có vẻ gay gắt, bạo lực nhưng phần
sau của câu này lại cho người đọc cảm nhận một nỗi đau đớn, chua xót của một người
chồng vẫn còn yêu thương vợ mình mà phải cứng rắn răn dạy người vợ hư thân. Tất
cả “những vật đĩ thõa trên mặt và những dấu ngoại tình trên ngực” của “nó (người
vợ) đều phải vứt bỏ.” Tức là những thứ thuộc về văn hóa đồi trụy vùng Ca-na-an,
của những người thờ kính Ba-an phải bị dẹp bỏ. Câu 13 sau này sẽ nói rõ hơn rằng
đó là vòng, vàng xỏ mũi và đeo cổ, tức là những dấu hiệu của gái mại dâm (Gr
4,30; Ed 23,40) hay trang sức thờ cúng thần Ba-an. Rõ ràng cuối câu 4 là lời mời
gọi hơn là xét xử. Lời kêu gọi ấy cũng cho thấy chính người vợ là nguyên nhân
phá hủy giao ước phu phụ và việc người chồng chối bỏ cô là hệ quả tất yếu,
chính đáng. Trong nỗi đau đớn, người chồng tuyên cáo án phạt sẽ dành cho người
vợ nếu cô không bỏ thói lăng loàng của mình. Theo luật của người Ít-ra-en, người
vợ ngoại tình bị bắt thì phải bị xử tử (Đnl 22,22). Tuy nhiên, dường như ở đây
người chồng không hề muốn xử cô vợ theo luật ấy mà chỉ muốn răn đe. Câu 5 nói
rõ rằng cô sẽ bị “lột trần truồng…biến thành sa mạc…cho chết khát.” Hơn nữa, những
đứa con của cô cũng sẽ không được yêu thương (c.6).
Tới đây, người đọc có thể dừng lại để xác định lại các tuyến
nhân vật. Thật khó hình dung câu chuyện kể về người nhưng lại xuất hiện những yếu
tố liên kết sự vật như “sa mạc” trong câu 5 này. Có lẽ hình ảnh đất đai, sa mạc
trong câu 5 cho ta hiểu rằng tương quan vợ chồng trong đoạn văn đang phân tích
không chỉ đơn thuần là tương quan giữa Hô-sê và bà Gô-me-vợ ông, nhưng nó còn
diễn tả tương quan giữa Đức Chúa và dân Ít-ra-en trên vùng đất họ đang sống.
Như thế, Hô-sê đã nói đại diện cho Đức Chúa. Theo cách hiểu đó, lược lại câu 4,
những đứa con và cả người mẹ có thể hiểu là chính dân Ít-ra-en. Cũng vậy, việc
từ bỏ những dấu tích lăng loàng có thể cho độc giả liên tưởng tới việc từ bỏ
các thần của dân ngoại (St 35,2; Gs 24,14.23; 1Sm 7,3). Nội dung câu 5 diễn tả
hình bóng văn hóa thực tồn vùng Ca-na-an và hình phạt đe dọa được thực hiện
trên đất đai hơn là trên dân.[8] Dựa vào bối cảnh lịch sử,
đây có thể được coi là lời tiên trưng cho việc Sa-ma-ri bị sụp đổ. Trong đó, Đức
Chúa đưa Ít-ra-en từ cảnh nô lệ bên Ai-cập đến tự do. Ngài đưa dân băng qua sa
mạc, thiết lập giao ước và ban đất cho dân. Giờ đây dân không trung tín với
giao ước thì phải trả lại đất cho Đức Chúa và quay về với thân phận nô lệ, lưu
lạc, tha phương.
Tiếp nối những hình phạt nếu người vợ không từ bỏ lối sống của
mình, những đứa con do vợ sinh ra cũng sẽ không được thương. Theo luật hôn nhân
và thừa kế của người vùng Cận Đông, những đứa con do người mẹ lăng loàng, bị chồng
ruồng bỏ và đuổi khỏi nhà thì không được thừa kế gia sản của người cha (St
21,10-14; Tl 11,3-7).[9] Như vậy, những đứa con cũng
sẽ bị ảnh hưởng bởi lối sống của người mẹ. Liên tưởng tới tương quan giữa Đức
Chúa và dân Người, độc giả có thể thấy rằng những người dân sống trong đất nước
Ít-ra-en sẽ cùng chịu chung vận mệnh của toàn dân tộc (Gr 21,3-9).
Cáo tội
người vợ và những hình phạt người chồng có thể áp dụng (cc.7-15)
Sau khi thể hiện nỗi uất ức, người chồng tuyên cáo những tội
trạng của người vợ và theo đó, người chồng đề ra những phương án hình phạt có
thể áp dụng để lôi kéo người vợ quay về với mình. Các câu 7-15 được chia thành
2 cặp “cáo tội người vợ” (cc.7.10) và “những hình phạt được đề xuất”
(cc.8-9.11-15). Cấu trúc sau mỗi lần cáo tội người vợ liên hệ đến những sản vật,
quà tặng thì hình phạt được đề ra một cách tương ứng “bởi thế, Ta sẽ …”. Tội của
người vợ được kể ra mỗi ngày một tăng nặng, quá quắt và hình phạt cũng ngày
càng nặng hơn.
Ở câu 7, người vợ bị tố tội là đã làm điếm. Lời của người vợ
được trích dẫn ở ngôi thứ nhất cho thấy ý muốn và tự cho chọn lối sống của cô.
Khác với những cô gái điếm đứng đường chờ khách tới, người vợ này lại chủ động
tìm kiếm khách hàng. Cô ta công khai chạy theo tình nhân để tìm kiếm bánh, nước,
len, vải, dầu ăn, thức uống. Đó là những đồ dùng thường ngày và có thể dùng làm
lễ vật dành cho đám cưới vùng Cận Đông.[10]
Đó đồng thời cũng là lễ vật dâng cúng cho Ba-an ở thế kỷ VIII TCN.[11] Như vậy, dân Ít-ra-en được
đại diện bằng hình ảnh người vợ đã công khai chối bỏ Đức Chúa mà tìm kiếm những
vật phẩm từ bên ngoài, công nhận tình nhân Ba-an là chúa của họ. Bên cạnh đó,
đây cũng là lời cáo tội Ít-ra-en thời kỳ sau cuộc chiến Si-rô – Eph-ra-im đã
không nghe lời ngôn sứ cảnh báo mà cậy vào tài trí của mình, đi cầu viện Ai-cập
để đánh Át-sua.[12]
Cụm từ “bởi thế, Ta sẽ…” bắt đầu mở ra một phương án để sửa
dạy người vợ. Ở câu 8, người chồng sẽ lấy gai góc chặn đường, xây tường rào để
ngăn cản người vợ tiếp tục chạy theo các tình nhân của mình. Khi không sống
đúng với phẩm giá, người vợ trở thành những con vật bị quản thúc. Điều này cũng
là hình ảnh liên hệ đến biến cố Samari bị cô lập năm 731 TCN. Kết quả của việc
làm rào chắn là khiến cô vợ “chạy theo tình nhân mà không gặp; tìm kiếm chúng
mà chẳng thấy” và khiến cô suy nghĩ về thời gian ở bên chồng của mình (c.9). Cô
vợ so sánh các tình nhân với chồng và nhận ra mình sướng hơn khi ở với chồng. Một
lần nữa, lời thú nhận của cô vợ được dùng ở ngôi thứ nhất để thấy sự tự do của
cô. Tuy nhiên, việc một người lìa bỏ vợ thì không thể tái hôn với người vợ ấy nữa
(Đnl 24,1-4), huống hồ gì đây là tự cô vợ muốn quay về bên chồng.[13] Bên cạnh đó, cô vợ muốn trở
về không phải là vì yêu chồng hay ăn năn lỗi lầm của mình nhưng vì ở nhà chồng
thì cô được sung sướng hơn tình cảnh bây giờ.[14]
Cũng vậy, Ít-ra-en trở về với Đức Chúa không phải vì nhận thức những gì Đức
Chúa ban cho họ nhưng vì kinh nghiệm được chăm sóc, bảo vệ. Đó là sự trở về
cách hời hợt và quy kỷ như được nhận thấy nơi Gia-róp-am I (1V 13,1-6), A-kháp
(1V 18), Giê-hu (2V 9-10),…
Nếu ở câu 7, người vợ ở ngôi thứ nhất nói “chính họ (tình
nhân) cho tôi” thì sang câu 10, đối lại, người chồng ở ngôi thứ nhất nói “chính
Ta đã ban cho nó”. Nhân vật chồng tiếp tục hạch tội người vợ. Ông cho thấy rằng
người vợ đã nổi loạn, không chịu nhận biết những gì ông tặng cho cô (c.7) và lại
còn đem đi chế tác những đồ dâng cúng Ba-an. Động từ [dy mang nghĩa chủ ý nhận
thức hơn là việc biết thông tin đơn thuần.[15]
Hơn nữa, việc người vợ chối bỏ chồng để chạy theo tình nhân thật hài hước vì những
thứ người vợ liệt kê và cho là mình nhận từ tình nhân thì thực tế chẳng thể so
bì được với những gì cô nhận từ chồng. Quả vậy, ở câu 7, người vợ nói rằng cô
nhận từ tình nhân: bánh, nước, len, vải, dầu ăn, thức uống; còn ở câu 10, người
chồng cho biết đã tặng cô lúa mì, rượu mới, dầu tươi, vàng bạc nữa. Tất cả những
thứ người vợ đề cập chỉ là những nhu yếu phẩm thường ngày; còn những gì người
chồng nhắc đến là đặc biệt dành cho một hôn lễ sang trọng (St 24,47.53). Tình
tiết tăng nặng của tội người vợ chính là việc cô dùng những gì người chồng ban
tặng để dành cho tình nhân của mình. Thật nực cười khi một cô gái điếm lại dùng
những gì mình có để dâng tặng cho tình nhân, khách hàng của mình. Hình ảnh người
vợ phản ánh thực trạng của dân Ít-ra-en thời Giơ-róp-am II.[16]
Đất nước khi ấy thịnh vượng và dân chạy theo bái tế thần Ba-an như thể những gì
họ đang có là do thần ấy ban tặng vậy.
“Bởi thế, Ta sẽ …” khởi đầu câu 11 đánh dấu bước chuyển từ hạch
tội sang đề ra phương án sửa trị người vợ. Nếu ở câu 9, gốc động từ bWva được
dùng với ý “quay về” thì ở câu 11, gốc động từ này được dùng lần nữa với ý “lấy
lại”, “đòi lại”. Theo luật của vùng Cận Đông, hành vi đòi lại mọi thứ của chồng
là hệ quả của việc ly hôn.[17] Khi đó, Đức Chúa đòi lại
toàn bộ những sản vật từ thiên nhiên, đất đai. Ở cuối câu này, hình ảnh người vợ
xuất hiện trở lại trong tình trạng bị lấy lại toàn bộ đồ đạc đến mức trần truồng
tiên báo việc Samaria sẽ bị tàn phá. Lược lại câu 5, người đọc có thể thấy lời
răn đe của người chồng dành cho vợ không có hiệu quả. Kết quả ở câu 11 đã cho
thấy người vợ vẫn cố tình chạy theo lối sống lăng loàng của mình. Từ câu này,
tương quan giữa nhân vật “Ta” ở ngôi thứ nhất với đối thể không rõ ràng là người
vợ hay vùng đất và dân tộc. Lối hành văn như thế thu hút người đọc và cho thấy
nơi nhân vật người chồng rõ ràng có bóng dáng của Đức Chúa và nhân vật vợ là
dân Ít-ra-en. Có thể thấy, câu 11 này vừa có thể hiểu người chồng sẽ phạt vợ bằng
cách đòi lại mọi thứ mình đã tặng; nhưng cũng vừa có thể hiểu là Đức Chúa sẽ lấy
lại mọi sự, kể cả tương quan với dân Ít-ra-en để “không ai có thể cướp nó khỏi
tay Ta” (c.12). Như thế, câu 12 khẳng định quyền làm chủ của Đức Chúa trên dân
Ít-ra-en. Đi kèm với việc khẳng định quyền làm chủ, Đức Chúa cũng đưa ra một loạt
các hình phạt có thể áp dụng cho dân. Theo đó, Đức Chúa phơi bày những điều
đáng hổ thẹn (lewdness) mà dân đã làm, lấy đi niềm vui của những dịp lễ (c.13)
và hủy hoại nền nông nghiệp của dân (c.14). Điều ấy có lẽ muốn nói rằng dân sẽ
phải chịu cảnh tủi hổ của những kẻ bại trận; mùa màng của dân sẽ rơi vào tay kẻ
khác. Hình ảnh ấy làm người đọc liên tưởng đến việc Ít-ra-en thất trận và phải
lưu vong. Kinh nghiệm mất nước cũng đi đôi với việc không còn những ngày lễ hội.
Ở đây, những ngày lễ có thể là dịp lễ kính Đức Chúa: lễ Vượt Qua, lễ Bánh Không
Men, Sa-bát… (Xh 23,14-17; 34,18-24; Đnl 16,1-17; Ds 28,9-15) nhưng cũng có thể
là dịp lễ kính thần Ba-an.[18] Rất có thể, những dịp lễ
kính Chúa được tổ chức song song với các lễ kính thần Ba-an và dân đã chọn
Ba-an mà lãng quên Đức Chúa nên câu 15 có nhắc đến việc chạy theo tế tự thần
Ba-an “mà lãng quên Ta (Đức Chúa)”. Câu 15 này đóng vai trò như một sự đúc kết
những lời tuyên cáo tội trạng và ý định giáng phạt của Đức Chúa dành cho dân.
Như thế, hình phạt được đề ra khiến vùng đất Ít-ra-en trở lại tình trạng hỗn độn
ban đầu: rừng bất khả xâm phạm, trái cây bị dã thú gặm tan hoang… Đó là một cảnh
tượng của sự hoang tàn. Toàn bộ khối nội dung cc.4-15 được đánh dấu kết thúc bằng
cụm từ “sấm ngôn của Đức Chúa”.
Tái lập
hôn ước và hệ quả đi kèm (cc.16-25)
Khung
cảnh lãng mạn của hôn ước (cc.16-17)
Đầu câu 16 xuất hiện lại cụm từ “bởi thế, Ta sẽ…”. Như đã trình bày ở phần trước, cụm từ
này đánh dấu những hình phạt dự kiến sẽ được áp dụng cho người vợ (dân
Ít-ra-en). Tuy nhiên, ở đây cụm từ này lại mở ra một kế hoạch yêu thương mà người
chồng (Đức Chúa) dành cho cô vợ. Có vẻ như cách hành xử của người chồng không hợp
lý. Người vợ lăng loàng đáng lẽ nên bị phạt nhưng lại được chồng tha thứ và đón
nhận như thuở mới yêu. Sự chuyển biến bất ngờ từ đe dọa sang quyến rũ làm nổi bật
thêm hình ảnh người chồng đáng thương yêu vợ mình hết mực.[19]
Điều này cũng cho thấy tình thương của Đức Chúa dành cho dân Người vượt trên những
lập luận lý trí thông thường.
Sáng kiến khởi phát từ Đức Chúa và cũng chính Người mặc cho
những hạn từ rượu, cây vả, lúa, sa mạc,… một ý nghĩa mới. Nếu để ý, người đọc sẽ
thấy dường như Đức Chúa muốn đi lại con đường tình yêu của Người với dân: từ
quyến rũ, thuyết phục đến đưa vào sa mạc để thì thầm những lời thân mật. Nếu
“sa mạc” ở câu 5 mang nét tiêu cực thì ở đây, sa mạc là nơi để “thổ lộ tâm
tình”, nơi để ““lalh,sw evpi. th.n kardi,an auvth/j”” (ta sẽ nói vào tim của cô
ấy)[20]. Đó là hình ảnh thật lãng mạn
(St 34,3; Tl 19,3). Sa mạc ở câu 5 là nơi khô cằn, chết chóc, nơi dành cho những
ai chạy theo Ba-an; còn sa mạc ở đây là nơi của tình yêu, sự sống và dành cho
giao ước giữa Đức Chúa với dân Người.
Ở câu 17, Đức Chúa hứa phục hồi cho Ít-ra-en đất đai, hoa
màu chạy dài đất nước từ thung lũng A-kho[21].
Thung lũng ấy từng là nơi nổi loạn và “xúi quẩy” (Gs 7,24-26) giờ đây trở nên cửa
khẩu hy vọng và vinh dự. Nếu như hình ảnh vườn nho xuất hiện ở câu 14 trong
tình cảnh bị bỏ hoang, điêu tàn thì ở câu 17 này, chúng được Đức Chúa trả lại
trong tình trạng trù phú đến nỗi khiến A-kho trở nên cửa khẩu hy vọng. Điều này
được xem như món quà cưới cho việc tái lập hôn ước, như sẽ thấy ở các câu theo
sau. Thêm vào đó, Đức Chúa một lần nữa chờ đợi lời cam kết trung tín của dân
như ngày họ ký kết giao ước với Người tại chân núi Sinai (Xh 19,5-6.8; 24,7) mà
Đức Chúa gọi là “buổi thanh xuân” của dân Người. Điểm này sẽ được Ê-dê-ki-en
khai triển trong Ed 16,1-14; 23,3-4.8.
Khung cảnh lãng mạn ấy được thiết lập để làm nổi bật thêm việc
tái lập hôn ước giữa Đức Chúa với dân Người.
Hôn ước
và hệ quả đi kèm (cc.18-25)
Ngoài câu 15, trong khối cc.18-25 có 2 lần cụm từ “sấm ngôn
của Đức Chúa” được dùng. Khác với cách dùng lần đầu để đóng lại nội dung tiên
báo khả thể người vợ bị giáng phạt, cụm từ này được dùng ở 2 lần sau nhằm mở ra
những lời tiên báo về hôn ước và những hệ quả đi kèm.
Thêm nữa, cụm từ “vào ngày đó” xuất hiện 3 lần ở các câu 18,
20, 23 làm nổi bật lên chủ đề Đức Chúa tái lập giao ước với dân. Vậy ngày đó là
ngày nào? Nhà chú giải Edward Glenny cho rằng đó là thời kỳ Đức Chúa thể hiện
quyền năng của Người trong dân thánh (Am 5,18.20; 8,9).[22]
Còn theo nhà chú giải Kelle, “ngày đó” được hiểu là thời điểm Đức Chúa cứu vãn
mối tương quan của Ngài với dân bằng việc tái lập giao ước, như đề cập ở câu 23
và được báo trước bằng bầu khí diễn tả ở cc.16-17.[23]
Ở câu 18, đối tượng người vợ (dân Ít-ra-en) được nhắc đến ở
ngôi thứ hai, “ngươi” (giống cái, số ít). Cách chuyển này còn thấy ở cc.21-22.
Dễ thấy rằng từ khởi đầu bản văn, người vợ chỉ được nhắc đến ở ngôi thứ ba số
ít, nghĩa là chỉ được “nói về”. Trong câu 18 này, người vợ được nhắc đến bằng
ngôi thứ hai số ít, tức là được “nói với”. Từ “nói về” đến “nói với” là tiến
trình của việc hòa giải. Việc nhân vật người vợ chỉ được “nói về” diễn tả tương
quan xa rời giữa người vợ và người chồng (ngôi thứ nhất). Còn ở đây, người chồng
“nói với” đích danh người vợ bằng ngôi thứ hai. Điều này chứng tỏ người chồng
chủ động đi bước trước để lôi kéo người vợ về phía mình. Chính hành động như thế
của người chồng mở ra cơ hội cho người vợ trở về để hòa giải và sống tương quan
thân mật hơn với chồng. Tương quan ấy không còn xa xôi như giữa “ông chủ” và nô
tỳ, nhưng như giữa “mình” – tôi, tức là giữa hai vợ chồng. Hành động động của
người chồng cũng cho thấy Đức Chúa khẳng định vị thế của mình trong tương quan
phu-phụ với dân Ít-ra-en. Sau đó, Đức Chúa loại bỏ những tình nhân của vợ ở câu
19. Việc này do Đức Chúa, tức người chồng thực hiện nên nhân vật vợ được đặt ở
ngôi thứ 3 (giống cái, số ít). Có thể thấy, không cần chờ người vợ loại bỏ tàn
tích đĩ điếm khỏi mình (c.4), người chồng đã chủ động ra tay trước. Điều đó chứng
tỏ chính Đức Chúa chủ động hòa giải với dân Người.
Kéo theo giao ước tình thân với dân là một giao ước Đức Chúa
vì dân mà ký kết với thiên nhiên (c.20). Việc Đức Chúa lập giao ước với thiên
nhiên là để sinh ích lợi cho dân Người. Qua giao ước ấy, dân được hòa hợp với
thiên nhiên. Hình ảnh hòa hợp này đối nghịch hẳn với hình ảnh dã thú tung hoành
vườn nho ở câu 14. Có thể thấy, Đức Chúa chăm sóc Ít-ra-en bằng cách ký giao ước
với muông thú để chúng sống hòa hợp với dân, như được nhắc tới trong câu chuyện
Nô-ê (St 9,10). Thực ra, trong sách Thánh có nhiều đoạn ghi nhận rằng con người
vi phạm luật Chúa nên gây ra xung đột với thiên nhiên (St 3,14-21; Lv 26,21-22;
Đnl 28, 26.42; Hs 4,3). Ở đây, dân Ít-ra-en chạy theo thần Ba-an, đưa con bò
lên vị trí thần thánh. Như thế, họ đã lạm dụng thiên nhiên. Khi được tái lập
giao ước với Đức Chúa, họ phải từ bỏ Ba-an, tức là trả lại cho thiên nhiên vị
thế đúng của nó. Ngoài ra, trong câu 20, Đức Chúa cũng hứa ban cho dân được sống
hòa bình. Dân được sống yên vui khi sống trung tín với giao ước mà họ đã cam kết
với Đức Chúa. Khi bất trung, chiến tranh là hệ quả tất yếu xảy ra (Lv 26,25-39;
Đnl 28,25.31-33.49-52). Với việc tái lập hôn ước, Đức Chúa cho hòa bình ngự trị
trên dân; bạo lực được thay thế bằng bình an.
Sang câu 21, người vợ đại diện cho dân được Đức Chúa tuyên bố
lập hôn ước. Người vợ được nhắc đến ở ngôi thứ 2 để cho thấy Đức Chúa lập hôn ước
một cách trực tiếp với dân mà không thông qua trung gian nào. Đó được mô tả là
một giao ước vĩnh cửu, công minh, chính trực, ân tình và xót thương. Kéo theo
đó là việc người vợ sẽ được “biết Đức Chúa” (c.22). Điều này đối lập với việc
người vợ không nhận biết người chồng đã đối xử tốt với cô thế nào ở câu 10. Ở
đây, người vợ sẽ biết Đức Chúa mọi mặt đều vượt trội trên mọi tình nhân của cô.
Đó cũng có thể là lời tiên báo cho việc dân hồi hương và tái thiết Đền Thờ (538
TCN) sau khi cả hai vương quốc sụp đổ.
Câu 23 khởi đầu bằng cụm từ “vào ngày đó, sấm ngôn của Đức
Chúa…” để mở ra một loạt những hệ quả
của giao ước Đức Chúa vừa tái lập với dân Người. Hệ quả đầu tiên là lời chúc
phúc cho dân mùa màng phong phú. Động từ hn[ trong câu diễn tả hành động Đức
Chúa đáp lại (answer, respond) và quan tâm (be busy with, meet the needs of) đến
trời đất.[24] Ngài “đáp lại” trời khiến
mưa thuận gió hòa. Từ đó, trời “đáp lại” đất bằng việc đổ mưa và làm cho đất
đai màu mỡ, giải tỏa mọi cơn khát. Đó giống như điều được nhắc đến trong Đnl
28,12; Lv 26,19. Rồi đất “đáp lại” mùa màng làm cho sinh sôi lúa mì, rượu mới
và dầu tươi (c.24). Đó là những sản vật giúp giải tỏa mọi cơn đói và cũng là lễ
vật đám cưới được nhắc ở cc.10-11. Như vậy, hệ quả thứ hai đi kèm với việc Đức
Chúa tái lập hôn ước với dân là việc hoàn tất hôn lễ. Nếu dân Ít-ra-en đáp lại
Đức Chúa như buổi thanh xuân (c.17) thì ở đây, việc Đức Chúa đáp lại tạo nên những
món quà cưới để hoàn tất hôn lễ giữa Người với dân. Cuối cùng, những món quà ấy
đáp lại Gít-rơ-en. Điều này gợi lên hình ảnh trái ngược với hình ảnh sa mạc khô
cằn, chết chóc ở câu 4. Gít-rơ-en trong ngày đặc biệt này sẽ được phong phú,
triển nở. Đó là ngày trọng đại được nhắc đến ở Hs 2,2.
Hạn từ Gít-rơ-en (la[,r>z>yI-Jezreel) có nghĩa là Đức
Chúa gieo trồng. Đây là lối chơi chữ với từ Ít-ra-en (laer'f.yI-Israel).[25] Gít-rơ-en được biết là tên
đứa con đầu của Hô-sê và bà Gô-me, cũng là tên thung lũng nơi mà Đức Chúa sẽ
xét xử dân (Hs 1,4-5). Như thế, nơi xét xử giờ đây trở thành nơi có niềm vui tiệc
cưới tràn ngập tình thương và hy vọng.
Ở câu 25, Đức Chúa thể hiện quyền làm chủ duy nhất và sự
chăm sóc của mình trên dân khi tuyên bố Gít-rơ-en dành riêng cho Ngài “gieo trồng”.[26] Giao ước Đức Chúa tái lập với
dân Ít-ra-en không chỉ đem lại những hệ quả tích cực cho vụ mùa và nghi lễ
nhưng còn đưa tương quan giữa Người với dân vào tình trạng thân mật hơn. Điều
đó thể hiện qua việc Đức Chúa đổi tên cho những đứa trẻ. Từ những cái tên đầy
tiêu cực, bị từ chối “לֹא־רֻחָמָה / Lô-Ru-kha-ma”
(không-được-thương); “לֹא־עַמִּי / Lô-A-mi” (không-phải-dân-Ta)
giờ đây được đổi thành những cái tên chất chứa tình yêu thương “רֻֻחָמָה /
Ru-kha-ma” (được-thương); “עַמִּי / A-mi” (dân-Ta). Việc
đổi tên này diễn tả tương quan tái hợp của Đức Chúa với dân Ít-ra-en và chứng tỏ
Đức Chúa mới là chủ đất thực sự.
PHẢN TỈNH – TÌNH THƯƠNG MỞ NGỎ CHO TIẾN TRÌNH
HUẤN LUYỆN ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH
Hô-sê được xem là vị ngôn sứ của tình yêu và được coi là người
đầu tiên dùng hôn nhân như một ẩn dụ cho tương quan giữa Đức Chúa với dân
Ít-ra-en.[27] Hơn nữa, lối dùng hôn nhân,
tính dục nam nữ để ẩn dụ tình thương Đức Chúa dành cho dân của Hô-sê có ảnh hưởng
lớn tới các ngôn sứ thời sau[28], nhất là Giê-rê-mi-a (Gr
2-4; 30-31), Ê-dê-ki-en (Ed 16;23), I-sa-ia Đệ Nhị (54) cũng như nhiều bản văn
khác, thậm chí cả trong Tân Ước (Mc 2,19-20; Ep 5,25).
Trong số các đoạn sách mà ngôn sứ Hô-sê trình bày, đoạn Hs
2,4-25 có thể được xem là “bản tình ca” mẫu mực mà Thiên Chúa dành cho dân
Ít-ra-en. Bản tình ca ấy diễn tả đặc sắc sự trung tín trong tình thương của Đức
Chúa dành cho dân bất chấp sự bất trung của dân đối với Ngài. Trong đó, tình
thương Đức Chúa dành cho dân Người mở ngỏ cho dân con đường bước vào tương quan
thân mật hơn với Ngài. Có thể nói, với tình thương vượt quá những lập luận lý
trí khả dĩ đạt tới ấy, Thiên Chúa luôn sẵn sàng cho dân cơ hội mới để tiến bước
về bên Ngài. Thiết tưởng, nội dung lên án, kết tội nhân vật người vợ ở khối
cc.4-15 không thể sóng đôi với nội dung Đức Chúa thương yêu và ký hôn ước với
dân Người ở khối cc.16-25 được. Nội dung khối đầu có lẽ chỉ thích hợp đóng vai
trò bước đệm để làm nổi bật hơn cho nội dung ở khối sau mà thôi.
Tuy nhiên, việc lên án những tội lỗi của dân như ở khối
cc.4-15 không phải là không có giá trị. Trong phương pháp sư phạm của mình, Đức
Chúa lên án tội của dân Ít-ra-en là để giúp cho dân thấy rõ sự bất trung, thiếu
công bằng của họ đối với Ngài. Đức Chúa hy vọng rằng từ việc nhìn nhận lỗi lầm
của mình, dân có thể cảm nhận và xác tín hơn vào tình thương mà Ngài dành cho họ;
để rồi họ biết quay về sống đúng với giá trị mà Ngài mong đợi. Bối cảnh thực tế
cho thấy dân Ít-ra-en bị lôi cuốn bởi những lời mời gọi ảo của các thần ngoại
nên thường sa ngã, bất trung với những gì đã cam kết với Đức Chúa ở chân núi
Sinai. Mỗi lần dân sa ngã, Thiên Chúa lại răn dạy và dùng tình thương để cho họ
thấy đâu mới thực sự là nơi họ cần quay về.
Có thể thấy, Đức Chúa như người chồng chu toàn trách nhiệm
chăm sóc, bảo vệ gia đình (Hs 2,10) luôn sẵn sàng răn bảo và đón nhận người vợ
bất trung (Hs 2,7.10) biết ăn năn. Thái độ của người chồng dạy cho người vợ bài
học về giá trị sống đích thật và đâu mới là chồng thực sự của cô. Mặc dù vậy,
không có gì đảm bảo rằng cô vợ sẽ không tiếp tục phản bội người chồng một lần nữa;
nhưng chắc hẳn, mỗi lần được chồng đón nhận lại, cô vợ sẽ lại thấm thía hơn
tình thương của chồng.
Suy rộng hơn, tình thương của Chúa dành cho dân Người và
cũng là dành cho mỗi người Ki-tô hữu. Thiên Chúa luôn yêu thương bất chấp những
lần bị con người phản bội. Qua Đức Giê-su, Thiên Chúa lên án những tội lỗi, bất
trung mà con người vấp phạm. Ngài công minh và thẳng thắn chỉ ra những gì đi
ngược lại với giao ước tình thương của Ngài dành cho con người và mong đợi họ
ăn năn quay về với Ngài. Mỗi lần nhìn nhận tội lỗi bản thân và quay về với
Chúa, người Ki-tô hữu lại được kinh nghiệm về một tình thương bất chấp mọi lầm
lỗi. Qua Đức Giê-su, Thiên Chúa tỏ cho con người thấy Ngài yêu mỗi người cách rất
riêng. Càng nghiệm thấy sự bất trung nơi mình trước tình yêu ấy, mỗi người lại
càng cảm nhận được lời mời gọi hoán cải sâu xa. Điều đó khiến thánh Phao-lô phải
thốt lên rằng “ở đâu tội lỗi lan tràn, ở
đó ân sủng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Đó cũng chính là tiến trình tiệm
tiến trong đời sống đức tin của mỗi người. Mỗi lần vấp ngã và cảm nghiệm được
tình thương của Chúa đang mời gọi biến đổi đời sống là mỗi lần người Ki-tô hữu
gia tăng thêm đức tin của mình vào vị Thiên Chúa yêu thương được mặc khải nơi Đức
Giê-su Ki-tô.
Có thể nói, tình thương của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết
của con người. Tình thương ấy không hề thay đổi, bất chấp những vấp phạm, bất
tín của con người. Vì tình thương ấy mà Thiên Chúa dùng những hình thức khác
nhau, nhất là qua Đức Giê-su Ki-tô, để răn dạy và chỉ cho con người nhìn ra những
lỗi lầm của họ; đồng thời cho họ thấy Ngài sẵn sàng đón nhận những ai biết quay
về với Ngài. Lòng thương xót ấy của Chúa mở ngỏ cơ hội cho con người có thể sống
tương quan thiết thân với Ngài. Nhờ kinh nghiệm sự tha thứ của Thiên Chúa, thể
hiện nơi Đức Giê-su, người Ki-tô hữu được thôi thúc để sống đức tin ngày càng tự
do và trưởng thành.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, đoạn sách Hs 2,4-25 diễn tả tương quan tình yêu
của người chồng chung thủy với người vợ bất trung. Tương quan ấy ẩn dụ cho mối
quan hệ giữa Đức Chúa với dân Ít-ra-en. Trong đó, Đức Chúa đã dùng tình thương
để đối xử với dân, bất kể những tội lỗi mà dân đã vi phạm. Tình thương ấy vượt
hẳn những lập luận nhân-quả mà lý trí có thể đề ra. Thật vậy, đối lại với những
sai lỗi của dân Ít-ra-en, Đức Chúa luôn dùng tình thương để răn dạy, sửa trị và
cho dân cơ hội quay về sống tương quan thân mật với Ngài. Có thể nói, tình
thương ấy chính là cánh cửa mở ngỏ cho dân cơ hội để trở về với vị thế cao quý
mà Chúa ban cho họ từ thuở “thanh xuân” và tái hợp quan hệ thân mật với Chúa.
Tình thương ấy được thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giê-su và vẫn mở ngỏ cho người
Ki-tô hữu con đường để sống đức tin của mình mỗi ngày tự do và trưởng thành
hơn.
Thư Mục Tham Khảo
“hn[”. In
The Dictionary of Classical Hebrew,
vol.VI, edited by
David J.A. Clines et al., 492-502. Sheffield: Sheffield Phoenix Press, 2011.
“Hs 2,4-25”. Trong Kinh Thánh
Trọn Bộ. Dịch Và Chú Thích Bởi Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV), ấn bản
KPA 2011, 1941-1959. Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.
“Valley of Achor”. In Bibile Hub. Final access on 6th March 2019. https://bibleatlas.org/valley_of_achor.htm
Glenny, W. Edward. Hosea-A Commentary based on Hosea in Codex Vaticanus, edited by
Stanley E. Porter, Richard S. Hess, and John Jarick. Boston: Brill Academic
Press, 2013.
Godet, F. L. Comment
on the Gospel of St. Luke, vol.2, translated
by M. D. Cusin, 143-159. New York: I. K. Funk & co., 1881. Libronix.
Guenther, Allen R. Hosea – Amos: Believers Church Bible Commentary, edited by Elmer A.
Martens and Willard M. Swartley, 55-74. Pennsylvania: Herald-Press, 1998.
Haddox, Susan E. “Predications of
Non-Gender-Based Imagery”. In Metaphor
& Masculinity in Hosea (Studies in Biblical Literature, vol. 141),
edited by Hemchand Gossai et al., 91-133. New York: Peter Lang International
Academic, 2011.
Kelle, Brad E. Hosea 2: Metaphor and Rhetoric in Historical Perspective, edited by
Steven L. McKenzie and Mark Allan Powell. Atlanta: the Society of Biblical
Literature, 2005.
McConville, J. G. “Book of Hosea”. In Dictionary of the Old Testament Prophets,
edited by Mark J. Boda & J.Gordon McConville, 338-350. Illinois:
Intervasity Press. 2012.
Sherwood, Yvonne. The Prostitute & the Prophet: Hosea’s marriage in Literary
(Journal for the Study of the Old Testament: Supplement Series 212: Gender,
Culture, Theory 2), edited by John Jarick, David J.A. Clines, et al., 254-323.
Sheffield: Sheffield Academic Press, 1996.
Weems, Renita J. Battered Love: marriage, sex & violence in Hebrew Prophets,
edited by Walter Brueggemann, John R. Donahue, et al. Minneapolis: Fortress
Press, 1995.
Các đoạn trích Kinh Thánh bằng Việt ngữ trong bài này đều
được trích từ Kinh Thánh Trọn Bộ. Dịch
Và Chú Thích Bởi Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV), ấn bản KPA 2011, Hà Nội:
Tôn Giáo, 2011. Ngoài ra, người viết còn sử dụng: phiên bản dịch Hy-lạp LXX
(LXX - RH Text); phiên bản Biblica Hebraica Stuttgartensia (BHS); Bản dịch
Revised Standard Version 1952 (RSV).
x. Brad E. Kelle, Hosea 2: Metaphor and Rhetoric in Historical Perspective, edited by
Steven L. McKenzie and Mark Allan Powell (Atlanta: the Society of Biblical
Literature, 2005), 170.
Từ đây, trong bài viết, khi chú thích “các câu x-y”, và
“câu số z” người viết sẽ lần lượt ký hiệu “cc.x-y” và “c.z”. Ví dụ: các câu 4-6
sẽ được ký hiệu (cc.4-6); câu 3 sẽ được viết tắt (c.3).
Ngoài ra, trong 1 bản văn LXX chép tay cổ được tìm thấy, ở
đầu câu 16 có dấu hiệu khác lạ: từ đầu tiên nằm lệch ra bên ngoài lề. Tuy
nhiên, ở câu 15 trong bản văn ấy, từ su,nesin có ký tự “υ” cũng nằm lệch ở
ngoài, có thể là do thêm vào sau này. Như vậy, người đọc chỉ có thể phân biệt
khối nội dung dựa vào ý nghĩa mà chúng chứa đựng. (x. W. Edward Glenny, Hosea-A Commentary based on Hosea in Codex
Vaticanus, edited by Stanley E. Porter, Richard S. Hess, and John Jarick
(Boston: Brill Academic Press, 2013), 73).
. x. Kinh Thánh Trọn
Bộ…, 10.
x. Brad E. Kelle,
Hosea 2…, 54.230.
x. Allen R. Guenther, Hosea
– Amos: Believers Church Bible Commentary, edited by Elmer A. Martens and
Willard M. Swartley (Pennsylvania: Herald-Press, 1998), 58.
x. Brad E.Kelle,
Hosea 2…, 234.
x. Allen R. Guenther, Hosea
– Amos…, 60-61.
x. Brad E. Kelle, Hosea
2…, 237.
Thiết tưởng cũng nên nói đôi chút về cuộc chiến Si-rô –
Eph-ra-im và kế sách chính trị của các vua Ít-ra-en lúc ấy. Vào giữa thế kỷ
VIII TCN, ở vùng Levante (phía Đông Địa Trung Hải), các nước hùng mạnh phải kể
đến Ai Cập và Át-sua. Hai nước này thường lăm le chiếm đánh nhau để dành quyền
bá chủ vùng Levante. Con đường duy nhất để có thể đem quân tiến đánh nhau là
băng qua Ít-ra-en và Giu-đa. Năm 745 TCN, Tiglat-Pileser II lên ngôi ở Át-sua
và theo đuổi chính sách bành trướng lãnh thổ. Năm 738 TCN, vua Mơ-na-khem của
Ít-ra-en đã thuần phục Át-sua và chấp nhận nộp thuế. Không cam tâm, bộ tộc
Eph-ra-im ở cực Bắc lãnh thổ Ít-ra-en liên minh với tiểu vương quốc người A-ram
(Si-rô) ở Đa-mát, giáp biên giới phía Bắc Ít-ra-en để chống Át-sua. Liên minh
này muốn kéo Giu-đa vào cuộc nhưng vua A-khát của Giu-đa từ chối. Thế là năm
734-733 TCN, liên quân Si-rô – Eph-ra-im đánh Giu-đa với ý định truất ngôi
A-khát để thay bằng một vua khác chấp nhận gia nhập liên minh. Cuộc chiến này
được thuật lại trong 2V 15,29; 16; Is 7. A-khát khi ấy chạy qua Át-sua dâng cống
phẩm và cầu cứu Tiglat-Pileser. Chớp thời cơ, năm 731 TCN, vua Át-sua tiến quân
đánh chiếm Đa-mát và hầu hết vương quốc Ít-ra-en, cô lập Sa-ma-ri. Đến 724 TCN,
vua Hô-sê của Ít-ra-en một lần nữa chống Át-sua. Vua này chạy qua cầu viện Ai-cập
nhưng không được giúp. Kết quả là toàn bộ lãnh thổ Ít-ra-en, kể cả Sa-ma-ri rơi
vào tay Salmaneser V, vua Át-sua năm 722 TCN.
Hô-sê (không
phải vua Hô-sê) là vị ngôn sứ hoạt động nổi bật nhất ở vương quốc Ít-ra-en
trong thời gian cuộc chiến Si-rô – Eph-ra-im và gần đến khi vương quốc này hoàn
toàn sụp đổ. Ngôn sứ Hô-sê nhiều lần lên án lối sống của vua và hàng tư tế,
không tin tưởng vào Đức Chúa và giữ những giao ước của Ngài mà tranh giành ảnh
hưởng trong và ngoài vương quốc, liên tục cậy dựa vào thế các nước ngoại bang
khiến “huynh đệ tương tàn” (cuộc chiến Si-rô – Eph-ra-im). Sau cuộc chiến ấy,
vua lại bất chấp, bỏ ngoài tai những lời cảnh báo, khuyên can của Hô-sê, đừng
nên cậy dựa, cầu viện bất cứ nước nào, ngay cả Ai-cập để chống Át-sua thời điểm
bấy giờ và nên chuyên tâm quay về với những giáo huấn của Đức Chúa.
Nội dung ở những câu 16-25 lại cho biết người chồng đón nhận
lại người vợ. Điều đó hàm ẩn Đức Chúa, trong vị thế lang quân sẽ đón nhận lại
hôn thê của người là dân Ít-ra-en. Việc làm này của Đức Chúa cho thấy tình
thương của Ngài dành cho dân còn lớn hơn cả lề luật; đồng thời cũng cho thấy rằng
các tình nhân mà người vợ chạy theo thì không thực sự là chồng của cô.
Tâm thế mà người vợ trở về được diễn tả như thái độ của
người con thứ trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (Lc 15,11-32). Cũng như sự trở về
của người con thứ, sự trở về của Gô-me đầy tính vụ lợi. (x. Yvonne Sherwood, The Prostitute & the Prophet: Hosea’s
marriage in Literary (Journal for the Study of the Old Testament:
Supplement Series 212: Gender, Culture, Theory 2), edited by John Jarick, David
J.A. Clines, et al. (Sheffield: Sheffield Academic Press, 1996), 262).
F. Godet thì
diễn tả sự trở về của Gô-me cũng như của người con thứ, có đấu tranh nội tâm: “Có 2 thứ lôi kéo bên trong: bầu không khí của
nhà cha bao trùm lấy anh; anh cảm nhận được sự hiện diện của cha; nhưng thế giới
lôi kéo anh khiến anh ước ao tận hưởng cuộc sống như của chính mình.” (F.
L. Godet, Comment on the Gospel of St.
Luke, vol.2, translated by M. D. Cusin (New York: I. K. Funk & co.,
1881), 150. Libronix.
x. Brad E. Kelle, Hosea
2…, 243.
x. Allen R. Guenther, Hosea
– Amos…, 63.
x. Brad E. Kelle, Hosea
2…, 247-248.
Có lẽ có nhiều thần Ba-an: của Pơ-o (Ds 25,3); của Bơ-rít
(Tl 8,33), ở Các-men (1V 18).
x. Renita J. Weems, Battered
Love: marriage, sex & violence in Hebrew Prophets, edited by Walter
Brueggemann, John R. Donahue, et al. (Minneapolis: Fortress Press, 1995), 45.
Thiết nghĩ, trong ngôn ngữ Hy-lạp, việc “thổ lộ tâm tình”
được ví như “khẽ nói vào tim” một cô gái có khả năng biểu đạt sự lãng mạn tốt
hơn hẳn nhiều bản dịch của ngôn ngữ khác. Do vậy, ở đây người viết trích bản dịch
bằng Hy ngữ.
x. W. Edward Glenny, Hosea…,
80.
x. Brad E. Kelle, Hosea
2…, 274.
x. “hn[”, in The
Dictionary of Classical Hebrew, vol.VI, edited by David J.A. Clines et al.
(Sheffield: Sheffield Phoenix Press, 2011), 492-496.
x. J. G. McConville, “Book of Hosea”, in Dictionary of the Old Testament Prophets,
edited by Mark J. Boda & J.Gordon McConville (Illinois: Intervasity Press,
2012), 342.
x. Susan E. Haddox, “Predications of Non-Gender-Based
Imagery”, in Metaphor & Masculinity
in Hosea (Studies in Biblical Literature, vol. 141), edited by Hemchand
Gossai et al. (New York: Peter Lang International Academic, 2011), 121-122.
x. Brad E. Kelle, Hosea
2…, 48.
x. Renita J.Weems, Battered
Love…, 45.