Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (love và to love)

Đức GiêSu Đã, Đang Và Mãi Mãi Yêu Chúng Ta Cho Đến Cùng

"Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta"

Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (love và to love)

Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (love và to love)

TIẾP CẬN VÀ HỌC HIỂU LỜI CHÚA:
TƯ DUY HIỆN HỮU (to be), SỞ HỮU (to have)
TRONG PHẠM TRÙ YÊU THƯƠNG (loveto love)

Lm. Giuse Tạ Huy Hoàng

Mục lục

Từ mặc khải thánh danh của Đức Chúa….. 1

Với ý nghĩa của “Ta là Đấng Hiện Hữu” 2

Đến nội dung và mục đích….. 3

Tư duy “hiện hữu” (và sở hữu)….. 5

Khi to be là thực động từ. 5

Khi to be là trợ động từ. 8

Tư duy “sở hữu” (và hiện hữu)….. 11

Khi to have là thực động từ. 12

Tư duy “yêu thương…” 15

Để tiếp cận và học hiểu Lời Chúa. 16

Câu hỏi gợi ý


Từ mặc khải thánh danh của Đức Chúa…

Khi Mô-sê hỏi tên của Đức Chúa thì Đức Chúa mặc khải danh của Ngài như sau: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (“I am Who I Am[1], “Ta là Đấng Ta Là”, “Ta là Ta Là”, Ta là Đấng Hằng Hữu”)[2].

Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.” Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”[3].

Từ thực tế lịch sử đó trong Thánh kinh, như một chọn lựa để tìm hiểu sâu rộng thêm về một trong những cách thức khả dĩ nhất để có thể tiếp cận và học hiểu Lời Chúa cách hiệu quả và xác thực hơn, bài viết “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (to love)” đã được biên soạn với ít nhiều những đối chiếu về ngôn ngữ.

Theo định hướng khá triết lý như thế, tư duy nhiều “hiện hữu” hơn “sở hữu” (more exsisting than possessing) trong nội hàm ngữ liệu to be nơi các bản văn Thánh kinh là thực chất tự nhiên, siêu nhiên, và cực tốt; cũng vậy, tư duy nhiều “sở hữu” hơn “hiện hữu” (more possessing than exsisting) trong nội hàm ngữ liệu to have nơi các bản văn Thánh kinh là thực chất tự nhiên, siêu nhiên, và cực tốt[4]. Cả hai lối tư duy triết lý mà thực tiễn ấy đã gặp nhau một cách cần thiết và hết sức hài hòa trong phạm trù “yêu thương” (loveto love).

Với ý nghĩa của “Ta là Đấng Hiện Hữu”

Thật vậy, không chỉ là Hiện Hữu, Thiên Chúa còn đương nhiên chính là Đấng Tự Hữu, Đấng Hằng Hữu… bởi lẽ, con người có suy tư luôn phải khẳng định rằng phẩm tính tất yếu của Thiên Chúa Đấng Tạo Hóa là tự hữu, hiện hữu, hằng hữu…. Vâng, Thiên Chúa trong giao điểm giữa triết học và thần học phải là thế, trong thần học thuần túy lại càng phải hơn thế! Nghĩa là, mặc khải Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu, Đấng Hiện Hữu, Đấng Hằng Hữu… cũng chính là Đấng Ta Là (“Ta là Đấng Ta Là”, “Ta là Ta Là”). Theo đó, điểm đến khả dĩ của suy tư triết học chắc chắn phải bao gồm ý nghĩa đương nhiên đó. Còn mặc khải trong thần học Ki-tô giáo lại càng chứng thực cho vấn đề đó của triết học đặt ra.

Tuy nhiên, vẫn sẽ mãi là vấn đề bất khả thấu, vấn đề không thể đạt được sự tối đa tuyệt đối, có chăng chỉ là tối đa tương đối… khi con người muốn hiểu mà không bao giờ có thể hiểu hết về Thiên Chúa. Thật vậy, dù chỉ là cái biết thấu đáo tuyệt đối về một vấn đề nào đó, về thánh danh của Thiên Chúa chẳng hạn, thì cũng không bao giờ được. Hữu hạn không bao giờ có thể thẩm thấu như vô hạn. Sẽ luôn là quá đáng khi phải trình bày về Tạo Hóa là Đấng Ta Là (“I am Who I Am”)[5].

Chắc chắn quá lời... khi so với Tạo Hóa
Bởi Đấng “Ta Là” dựng nên cả đất trời[6].
Chắc chắn quá hời... khi so với Tạo Hóa
Ngài là “Tất Cả” tất cả khác phụ tùy
Chắc chắn quá đời... khi so với Tạo Hóa
Chí Thánh Cao Cả... sánh thế nào... phàm nhân![7]

Và vậy ra, khi Thiên Chúa phán “Ta Có! Ta Là!” thì phải chăng Ngài nói đến “tính sở hữu”, “sự có”, “tính hiện hữu”, “tính tồn hữu” của Ngài và cũng là “sự tự hữu” “sự tự có”, “sự tự hiện hữu, tồn hữu” của chính Ngài. Thế thôi sao: nghĩa là, đã có, đang có, và tồn hữu mãi mãi, bản thể của Ngài độc lập, trọn vẹn, và không bao giờ thay đổi![8] Vì thế, để tiếp cận và học hiểu Lời Chúa, và đón nhận được phần nào những mặc khải của Thiên Chúa Hằng Hữu thì tư duy hiện hữu, sở hữu… trong phạm trù yêu thương (vì Thiên Chúa chính là tình yêu) phải được xem là rất cần thiết. Sẽ thật tuyệt vời khi cả hai lối tư duy triết lý “biện chứng”[9] và thực tiễn như thế được cùng nhau thể hiện ngữ nghĩa đủ đầy trong nỗ lực diễn tả “tính sở hữu”, “tính hiện hữu”… và cũng là “sự tự hiện hữu, tự tồn hữu” của Thiên Chúa Tình Yêu Xót Thương (Merciful Love)[10].

Vả lại, ngoài Thiên Chúa ra, tất cả các sự thực hữu khác đều là thứ cấp, do Thiên Chúa sáng tạo, cho phép hiện hữu và để cho các thụ tạo ấy được thông phần vào công trình sáng tạo của Ngài. Nghĩa là, với ý nghĩa của “Ta là Đấng Hiện Hữu”, việc mặc khải thánh danh của Đức Chúa… giúp chúng ta định hướng cuộc đời mình, những thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương.

Vâng, đó cũng chính là một số nét đại cương về nội dung và mục đích của bài viết, để chúng ta khi suy nghĩ hãy tích cực, khi làm hãy nỗ lực, khi sống hãy hiện thực bằng những hoạt động bác ái thương yêu: “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (loveto love)[11].

Đến nội dung và mục đích…

Khi muốn sống đúng theo thánh ý Chúa, thì một trong những điều cần là người ta phải biết đúng về thánh ý của Chúa. Nếu muốn biết đúng thánh ý Chúa một cách hiệu quả, thì có lẽ một trong những điều cần là người ta phải biết đúng cách tiếp cận và học hiểu Lời Chúa sao cho hiệu quả thật. Và nếu muốn có động lực “tốt và đúng” một cách tự nhiên để có thể hăng hái tiếp cận và học hiểu Lời Chúa cách đúng đắn nhất, hiệu quả nhất thì trước nhất, người ta phải cậy nhờ vào ân sủng Chúa ban; sau đó, lại rất tự nhiên và tiệm tiến, phải nại ra những lý do “nên và phải” đọc Thánh kinh như: Thánh kinh là Lời Chúa đang nói với chúng ta, giúp chúng ta cầu nguyện, khích lệ chúng ta sống đạo, thúc đẩy chúng ta mong muốn được trở thành những nhà truyền giáo nhiệt thành hơn. Theo đó, nhờ tiếp cận và học hiểu Lời Chúa như thế, chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa rõ ràng hơn; nghe được tiếng Chúa rõ ràng hơn, chúng ta lại càng muốn tiếp cận và học hiểu Lời Chúa nhiều hơn… để áp dụng vào đời sống.

Ngay như trong bối cảnh buổi tĩnh tâm linh mục đoàn TGP. Sài Gòn-TP. HCM vừa qua chẳng hạn (05-01-2023)… thì cũng vậy[12]. Đi trước là ân sủng Chúa ban. Đi sau là sự tiếp cận, học hiểu, và áp dụng Lời Chúa vào chính đời sống của bản thân mỗi Ki-tô hữu. Cả hai đều cần thiết để thay đổi, để nâng cấp, để thánh hóa cuộc sống theo hướng tích cực. Đó là một trong những phương pháp độc đáo không thể thiếu vì chính sự hài hòa lợi ích đích thực của ngữ nghĩa văn bản Thánh kinh: “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (loveto love)”.

Các tham dự viên buổi tĩnh tâm hôm ấy thật dễ dàng nhận ra nhiều đề mục lớn hết sức quan trọng: (1) Thay đổi lối sống / văn hóa (Xem); (2) Triết lý sống của người hiện đại (Xét); (3) Người mục tử thay đổi (Làm). Theo đó, phần “Thay đổi lối sống / văn hóa” đã đặc biệt nhắc đến một nội dung “Con người như một cỗ máy, được nhìn theo phạm trù hiệu năng, thiếu chiều sâu, tư duy theo phạm trù ‘sở hữu’ (to have: tiền, của cải) chứ không phải là ‘hiện hữu’ (to be: phẩm giá)”[13].

Vậy thì, để một lần nữa xác định nội dung và mục đích của việc tiếp cận và học hiểu Lời Chúa với tư duy hiện hữu, sở hữu, yêu thương (to be, to have, to love) trong đời sống Ki-tô hữu, bài viết này đã và đang trình bày đôi chút về những nỗ lực khả dĩ nhất cho những ai muốn tiếp cận và học hiểu Lời Chúa… trong tình yêu xót thương của Ngài.

Đặc biệt, khi so sánh những vấn đề này trong tiếng Việt và tiếng Anh thường xuất hiện nơi các bản văn Thánh kinh, bài viết này còn muốn khởi đi từ chính nội hàm ngữ nghĩa của “hiện hữu” (to be), “sở hữu” (to have), “yêu thương” (to love)… để trong chính đời sống đạo của mình, mỗi Ki-tô hữu lại có thể tìm thấy nguồn cảm hứng tự nhiên lẫn siêu nhiên từ bổn phận phải tiếp cận và học hiểu Lời Chúa với tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (to love).

Đó sẽ là… một trong những phương pháp tiếp cận, học hiểu, và áp dụng Lời Chúa mỗi ngày một tích cực hơn[14]. Thật vậy, để tiếp cận và học hiểu Lời Chúa, không chỉ là tư duy “hiện hữu” mà còn có tư duy “sở hữu”; không chỉ là “hiện hữu”, “sở hữu” mà còn là “tình yêu”.

Nghĩa là, trong Thánh kinh, cả hai lối tư duy này đều cần thiết, luôn tương tác bổ sung ý nghĩa cho nhau cách đặc biệt, liều lượng nhiều ít tùy vào từng trường hợp, “hiện hữu” ngay trước Dung nhan lòng Chúa thương xót (Vultus misericordiae)[15] và “sở hữu” ngay trong tình yêu bao la của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (Dives in misericordia)[16].

Tư duy “hiện hữu” (và sở hữu)…[17]

Không chỉ thuần túy như suy tư triết lý kiểu René Descartes: “Tôi tư duy do đó tôi hiện hữu” (Je pense, donc je suis)[18] – theo đó, dòng chảy triết lý có thể sẽ rất “dài dòng”: “Tôi nghi ngờ, nên tôi tư duy, nên tôi tồn tại (Dubito, ergo cogito, ergo sum) – để có thể tiếp cận và học hiểu Lời Chúa theo “nội dung và mục đích…” trình bày ở phần trên, mà còn trước hết, (1) ta nghiệm ra tư duy “hiện hữu” (tồn hữu, hiện có…) và cả tư duy “sở hữu” (chiếm hữu, có…) thuộc phạm trù “yêu thương…” trong loveto love… xuất hiện ngay trong to be là một thực động từ (full verb); và sau là, (2) những tư duy ấy cũng có trong to be là trợ động từ (auxiliary verb).

Với vị thế là trợ động từ, to be trong tư duy “hiện hữu” cũng đã thực sự hiện hữu cùng tư duy “sở hữu” để “yêu thương…” trong ứng dụng thực hành của ngôn ngữ[19], giúp hữu hiệu cho việc thành lập thì (tense), cách (mood), dạng (voice), thể (form)[20].

Vâng, để: (1) Thành lập “thì”[21]; (2) Thành lập “dạng thụ động”; (3) Thành lập thể: nghi vấn, phủ định, và tiếp diễn… với chính nội hàm ngữ nghĩa của “hiện hữu” và “sở hữu” qua từng phần một[22], to be được sử dụng như thế thật ý nghĩa theo các kiểu thức nói trên để giúp tiếp cận, học hiểu đúng về Lời Chúa hơn.

Khi to be là thực động từ

Với nghĩa là ở, có mặt…

Trong những trường hợp như thế, to be là nội động từ (intransitive verb) và các cụm từ theo sau đều là các cụm phó từ làm trạng ngữ (adverb phrases). Hãy khám phá tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” trong các thí dụ sau:

- They took note that these men had been (= had stayed) with Jesus[23]. (Họ nhận ra là những người này đã từng ở với Chúa Giê-su.)

đã từng ở (hiện hữu) + đã từng có dịp để ở (sở hữu) … trong yêu thương

- For the last fourteen days, you have been in constant suspense….[24] (Suốt mười bốn ngày qua, các ông đã bền lòng trông đợi….)

đã bền lòng trông đợi (hiện hữu) + đã từng có dịp để đã bền lòng trông đợi (sở hữu) … trong yêu thương

- Before A was born, God is (= exists). (Trước khi có A, Thiên Chúa vẫn hiện hữu [đã có Thiên Chúa hiện hữu].)

vẫn hiện hữu (hiện hữu) + đã có Thiên Chúa hiện hữu (sở hữu) … trong yêu thương

Trong cấu trúc there + to be

Trong những trường hợp cấu trúc there + to be như thế, there là phó từ (adverb), hoặc cũng có thể coi là “hư từ” (expletive), làm chủ ngữ giả (formal subject); chủ ngữ thật (real subject) đi sau to be, nội động từ (intransitive verb)[25]. Ta hãy khám phá tư duy “sở hữu” và “hiện hữu” trong các thí dụ sau:

- There was grain in Egypt[26]. (= Grain was in Egypt.) ( thóc lúa ở Ai-cập.) (Thóc lúa ở đó trong Ai-cập.)

Có thóc lúa (sở hữu) + Thóc lúa ở đó (hiện hữu) … trong yêu thương

- There was no crowd with me[27]. (= No crowd was with me.) (Không có đám đông “quần chúng” nào với tôi.) (Đám đông “quần chúng” không ở với tôi.)

Không có đám đông “quần chúng” (sở hữu) + Đám đông “quần chúng” không ở (hiện hữu) … trong yêu thương

- There is almost nothing you can offer except solace. (= You can offer almost nothing except solace.) (Hầu như không có để bạn có thể biếu tặng ngoại trừ sự an ủi.) (Bạn hầu như không thể biếu tặng gì ngoại trừ sự an ủi.)

Hầu như không có gì (sở hữu) + Bạn hầu như không thể biếu tặng gì (hiện hữu) … trong yêu thương

Trong cấu trúc it’s + complement + real subject

Trong những trường hợp cấu trúc it’s + complement + real subject, it làm chủ ngữ giả (formal subject), chủ ngữ thật (real subject) đi sau to be, nội động từ (intransitive verb). Ta hãy khám phá tư duy “sở hữu” và “hiện hữu” trong các thí dụ sau:

- It is not the Roman custom to hand over any man...[28] (= To hand over any man… is not the Roman custom.) (Không có tục lệ Rô-ma giao nộp người….) (Giao nộp người không phải là tục lệ Rô-ma….)

Không có tục lệ (sở hữu) + Giao nộp người không phải là (hiện hữu) … trong yêu thương

- It was impossible for death to keep its hold on him[29]. (= To keep its hold on him was impossible for death.) (Sự chết không có thể cầm hãm được Người.) (Sự chết không thể cầm hãm được Người.)

không có thể (sở hữu) + không thể (hiện hữu) … trong yêu thương

Trong cấu trúc subject + to be + complement

Trong những trường hợp thuộc cấu trúc subject + to be + complement, to be cũng là nội động từ với tư duy “hiện hữu”, nhưng còn được gọi là động từ liên hệ (link verb)[30], tương tự như các động từ: to feel (cảm thấy), to remain (còn lại), to keep (giữ lại), to grow (tăng trưởng), to get (mắc phải, bị), to become (trở nên), to seem (có vẻ như), to look (tỏ ra), to appear (xuất hiện, hiện ra), to turn (trở nên). Trong các cấu trúc này, tư duy “hiện hữu” là chủ chốt; tư duy “sở hữu” chỉ phảng phất đôi chút:

- He is the stone you builders rejected, which has become the capstone[31]. (Người là viên đá thợ xây các ông loại bỏ, đã trở thành đá đỉnh góc.) (Có “Người là viên đá thợ xây...” chứ không phải là không có)

Người là viên đá thợ xây các ông loại bỏ (hiện hữu) + Có “Người là viên đá thợ xây...” (sở hữu) … trong yêu thương

- Then the high priest and all his associates, who were members of the party of the Sadducees, were filled with jealousy[32]. (Thế rồi vị thượng tế và tất cả những người cùng phe của ông, những người thuộc bè Xa-đốc, ngập tràn lòng ghen tức.)

(Thế rồi vị thượng tế và tất cả những người cùng phe của ông, những người thuộc bè Xa-đốc, ngập tràn lòng ghen tức.)

vị thượng tế và tất cả những người cùng phe của ôngngập tràn lòng ghen tức (hiện hữu) + những người thuộc bè Xa-đốc (sở hữu) … trong yêu thương

Với những cách sử dụng đặc biệt

Với tư duy “hiện hữu” và “sở hữu”, to be còn được dùng để diễn tả: tình trạng thể chất hoặc tâm trạng (physical or mental condition)[33], tuổi tác (age), kích thước (size), trọng lượng (weight), giá cả (price), thời tiết (weather), thời gian và ngày tháng (time and date). Ta hãy thử khám phá tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” trong các thí dụ sau đây:

- He is thirty years old. (age) (Anh ấy được ba mươi tuổi rồi.) (Anh ấy ba mươi năm tuổi.)[34]

được (hiện hữu) + (sở hữu) … trong yêu thương

- She has been one-meter seventy-three centimeters tall since 2022. (size) (Cô ấy đã cao được một mét bảy mươi ba từ năm 2022.) (Cô ấy có chiều cao một mét bảy mươi ba từ năm 2022.)

cao được (hiện hữu) + có chiều cao (sở hữu) … trong yêu thương

- It is fine today! (weather) (Trời đẹp ghê hôm nay!) (Hôm nay có thời tiết đẹp!)

Trời đẹp ghê (hiện hữu) + có thời tiết đẹp (sở hữu) … trong yêu thương

Khi to be là trợ động từ

Trong việc thành lập “thì”

Nếu cấu trúc to be + to-infinitive diễn tả: nhiệm vụ (duty), sự cần thiết (necessity), ý định (intention), sự dàn xếp (arrangement), sự thoả thuận (agreement), chỉ thị (instruction), tính khả dĩ (possibility), định mệnh (destiny) thì người xem hoặc nghe khi tiếp cận để học hiểu Lời Chúa cũng phải mang vào mình những tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” để những tâm thế nói trên của “nhiệm vụ, sự cần thiết, ý định, sự dàn xếp, sự thoả thuận, chỉ thị, tính khả dĩ, định mệnh…” cũng diễn tả tính “hiện hữu” và “sở hữu” nào đó của chính cấu trúc to be + to-infinitive muốn diễn tả. Ta hãy thử khám phá tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” trong các thí dụ sau đây:

- All the believers were to be (intention) together and have (duty) everything in common[35]. (Các kẻ tin đều muốn tựu lại cùng nhaubỏ mọi sự làm của chung.) (Các kẻ tin đều có ý muốn tựu lại cùng nhauđem mọi sự bỏ vào làm của chung.)

muốn tựu lại cùng nhau bỏ mọi sự làm của chung (hiện hữu) + có ý muốn tựu lại cùng nhau và đem mọi sự bỏ vào làm của chung (sở hữu) … trong yêu thương

- Therefore my heart is to be (necessity) glad, my tongue to rejoice (necessity) and my body also to live (necessity) in hope[36]. (Bởi thế lòng tôi nên sung sướng và lưỡi tôi cần phải vui mừng, cả thân xác tôi cũng cần sống trong hy vọng.) (Bởi thế lòng tôi được sung sướng và lưỡi tôi được vui mừng, cả thân xác tôi cũng được sống trong hy vọng.)

nên sung sướng và lưỡi tôi cần phải vui mừng, cả thân xác tôi cũng cần… (hiện hữu) + được sung sướng và lưỡi tôi được vui mừng, cả thân xác tôi cũng được… (sở hữu) … trong yêu thương

- The night before Herod was to bring (intention) him to trial, Peter was sleeping between two soldiers, bound with two chains, and sentries stood guard at the entrance[37]. (Đêm trước ngày Hê-rô-đê định đưa ngài ra xử, Phê-rô bị cùm bởi hai chiếc xiềng xích, đang thiếp ngủ giữa hai tên lính, và quân canh đứng phòng giữ ở lối vào.) (Đêm trước ngày Hê-rô-đê có ý định đưa ngài ra xử, Phê-rô bị cùm bởi hai chiếc xiềng xích, đang thiếp ngủ giữa hai tên lính, và quân canh đứng phòng giữ ở lối vào.)

định đưa ngài ra xử… và quân canh đứng phòng giữ… (hiện hữu) + có ý định đưa ngài ra xử… và có quân canh đứng phòng giữ… (sở hữu) … trong yêu thương.

- Some of the disciples from Caesarea accompanied us and brought us to the home of Mnason, where we were to stay (arrangement)[38]. (Một số môn đệ từ Caesarea cùng đi với chúng tôi, dẫn và sắp xếp cho chúng tôi đến nhà của Mnason là nơi chúng tôi trú ngụ.) (Một số môn đệ từ Caesarea cùng đi với chúng tôi, dẫn và sắp xếp cho chúng tôi có nơi trú ngụ nơi nhà của Mnason.)

nhà của Mnason là nơi chúng tôi trú ngụ (hiện hữu) + nơi trú ngụ nơi nhà của Mnason (sở hữu) … trong yêu thương

- You are to abstain (instruction) from food sacrificed to idols, from blood, from the meat of strangled animals and from sexual immorality[39]. (Anh em phải kiêng cữ đồ cúng thần, máu huyết, thịt ngột và dâm bôn.) (Anh em được dạy phải kiêng cữ đồ cúng thần, máu huyết, thịt ngột và dâm bôn.)

phải kiêng cữ (hiện hữu) + được dạy phải kiêng cữ (sở hữu) … trong yêu thương

Trong việc thành lập “dạng thụ động”

Cũng thật rõ ràng, tất cả các thì ở dạng thụ động (passive voice) đều do trợ động từ to be thuộc phạm trù không chỉ “hiện hữu” mà còn là “sở hữu” giúp tạo nên. Thật vậy, cấu trúc của mệnh đề ở dạng thụ động chính là: chủ ngữ + to be + động tính từ quá khứ[40]. Vì thế, ta hãy thử khám phá tư duy “hiện hữu” và “sở hữu” trong các thí dụ sau đây:

- For, said Peter, it is written in the book of Psalms, “May his place be deserted….”[41] (Bởi Phê-rô nói, sách Thánh vịnh đã viết: “Ước gì nơi ở của nó trở hãy thành hoang vu….”) (Bởi Phê-rô nói, trong sách Thánh vịnh hẳn có viết: “Ước gì nơi ở của nó hãy trở thành hoang vu….”)

đã viết (hiện hữu) + hẳn có viết (sở hữu) … trong yêu thương

- If we are being called to account today for an act of kindness shown to a cripple and are asked how he was healed[42] (Nếu hôm nay người ta gọi chúng tôi đến trả lẽ cho một việc tử tế đã thực hiện cho một người tàn tật, và tra hỏi chúng tôi xem bằng cách nào mà người ấy đã được chữa lành….) (Nếu hôm nay chúng tôi bị mời đến vì một việc tử tế làm cho một người tàn tật, và bị tra hỏi bằng cách nào mà người ấy đã được chữa lành….)

gọi chúng tôi đến trả lẽ cho một việc tử tếtra hỏi chúng tôi… (hiện hữu) + bị mời đến vì một việc tử tếbị tra hỏiđã được chữa lành… (sở hữu) … trong yêu thương

- There you will be told all that you have been assigned to do[43]. (Ở đó người ta sẽ bảo cho con biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho con phải làm.) (Ở đó con sẽ được bảo cho biết tất cả những gì con được chỉ định phải làm.)

người ta sẽ bảo cho conThiên Chúa đã chỉ định cho con… (hiện hữu) + được bảo cho biếtđược chỉ định phải làm… (sở hữu) … trong yêu thương

Trong việc thành lập thể nghi vấn, phủ định, tiếp diễn

Trong câu có trợ động từ to be, để thành lập thể (forms): nghi vấn (interrogative), phủ định (negative), tiếp diễn (progressive), công việc phải làm không chỉ thuộc phạm trù “hiện hữu” mà còn là “sở hữu” do liên quan chủ yếu đến chính động từ to be[44]. Tuy nhiên, trong các cấu trúc này, tư duy “hiện hữu” là chủ chốt; tư duy “sở hữu” chỉ phảng phất đôi chút. Vì thế, ta thử khám phá nhận định trên trong các thí dụ sau đây:

-  Who are you (interrogative), Lord?[45] (Thưa Ngài, Ngài là ai?) (Thưa Ngài, Ngài là ai?)

Ngài là ai (hiện hữu) + (sở hữu) … trong yêu thương

- It is not (negative) for you to know the times or dates the Father has set by His own authority[46]. (Biết thời buổi hay ngày tháng Cha đã định do quyền của chính Ngài thì không phải là việc các ngươi.) (Các ngươi không được biết thời buổi hay ngày tháng Cha đã định do quyền của chính Ngài.)

thì không phải là việc các ngươi (hiện hữu) = không được biết (sở hữu) … trong yêu thương

- It is quite right to say that the Church has been led by the Holy Spirit, isn’t it (negative + interrogative: tag question)?[47] (Nói rằng Chúa Thánh Thần vẫn luôn soi dẫn Giáo hội hẳn là quá đúng, phải không nào?) (Hẳn là quá đúng để nói rằng Giáo hội vẫn luôn được Chúa Thánh Thần soi dẫn, phải không nào?)

Chúa Thánh Thần vẫn luôn soi dẫnlà quá đúng, phải không nào (hiện hữu) = vẫn luôn được Chúa Thánh Thần soi dẫn, phải không nào (sở hữu) … trong yêu thương

- On one of these journeys I was going (progressive) to Damascus with the authority and commission of the chief priests[48]. (“Dịp thực hiện một trong các cuộc hành trình như thế, tôi đã tới Đa-mát sau khi các thượng tế trao quyền và sự uỷ nhiệm.) (“Nhân thực hiện một trong các cuộc hành trình đó, tôi đã có dịp tới Đa-mát sau khi được các thượng tế trao quyền và sự uỷ nhiệm.)

tôi đã tới Đa-mát… (hiện hữu) + đã có dịp tới Đa-mátđược các thượng tế trao quyền và sự uỷ nhiệm (sở hữu) … trong yêu thương

Tư duy “sở hữu” (và hiện hữu)…[49]

Để tiếp cận và học hiểu Lời Chúa, trước hết, tư duy “sở hữu” (chiếm hữu, có…) xuất hiện ngay trong to have là một thực động từ (full verb). Kế đến, khi nói đến to have, người sử dụng tiếng Anh không thể không nghĩ đến phạm trù “sở hữu”, ngay cả khi trong tiếng Việt phải sử dụng từ ngữ khác cho thích hợp thì không vì vậy mà tính sở hữu lại không tiềm tàng ngay trong các “từ ngữ khác” ấy[50]. Thí dụ: khi “không làm việc gì” (thuộc phạm trù “hiện hữu”) chẳng hạn thì khác với “không có việc gì để làm” (thuộc phạm trù “sở hữu”)[51].

Bởi lẽ, “không có việc gì để làm” làm nổi bật phạm trù “sở hữu”, rất khác với “không làm việc gì” thuộc phạm trù “hiện hữu”. Phạm trù “sở hữu” cũng thể hiện ít nhiều trong các hình thức khác nhau của động từ to have: to have nguyên thể hiện tại (present infinitive), to have had nguyên thể hoàn thành (perfect infinitive), having động tính từ hiện tại (present participle), having động danh từ (gerund), had động tính từ quá khứ (past participle), having had động tính từ hoàn thành (perfect participle)…. Thật vậy, to have không chỉ diễn tả phạm trù “sở hữu” mà cũng ít nhiều thuộc về phạm trù “hiện hữu”. Với chính nội hàm ngữ nghĩa của “sở hữu” và “hiện hữu” qua từng phần một, to have trong các trích dẫn dưới đây mang đậm chất Thánh kinh…

Khi to have là thực động từ

Với nghĩa là “có”

Trong phạm trù “sở hữu” (chiếm hữu, có…), to have (= to possess / to own) là động từ thường (ordinary verb), là ngoại động từ (transitive verb) và có nghĩa là “sở hữu, thường có, thường xuyên có…”, đồng thời cũng bao gồm nghĩa “hiện hữu”. Theo đó, người ta vẫn sử dụng do / do not để thiết lập thể nghi vấn, thể phủ định[52]. Vì thế, ta hãy thử khám phá tư duy “sở hữu” và “hiện hữu” trong các thí dụ sau đây:

- Did he have the opportunity to defend himself against their charges?[53] (Có phải ông ta đã có cơ hội biện hộ cho mình chống lại các cáo trạng của họ không?) (Có phải ông ta đã sử dụng cơ hội đó để biện hộ cho mình chống lại các cáo trạng của họ không?)

có cơ hội (sở hữu) = sử dụng cơ hội đó (hiện hữu) … trong yêu thương

- Silver or gold I have not (got) (= There is neither silver nor gold…), but what I have (got) (= there is…) I give you[54]. (Bạc hay vàng tôi không có nhưng điều tôi thì tôi cho anh.) (Không phải bạc hay vàng tôi cho anh nhưng điều tôi thì tôi cho anh.)

tôi không có (sở hữu) + tôi cho anh (hiện hữu) … trong yêu thương

- You have (got) no part nor share (= There is neither your part nor your share…) in this ministry[55]. (Ngươi chẳng có phần hay khoản nào trong tác vụ này.) (Không phần hay khoản nào ở đó cho anh trong tác vụ này.)

Ngươi chẳng có phần hay khoản nào (sở hữu) + Không phần hay khoản nào ở đó (hiện hữu) … trong yêu thương

- If she had (got) a chance to re-live her life (= If there were a chance for her to re-live her life…), she would sing more. (Nếu cô ấy có cơ hội để được sống lại cuộc đời mình, cô ấy sẽ hát ca nhiều hơn.) (Nếu được dịp sống lại cuộc đời mình, cô ấy sẽ hát ca nhiều hơn.)

Nếu cô ấy có cơ hội để được sống lại cuộc đời mình (sở hữu) + Nếu được dịp sống lại cuộc đời mình (sở hữu + hiện hữu) … trong yêu thương

Khi có nghĩa là “ăn uống, tiếp đãi, nhận được, học, gặp phải, trải qua…”[56]

Trong những trường hợp như thế, to have vẫn là ngoại động từ (transitive verb) nhưng được xếp vào loại không bất thường (nonanomalous verb) và vẫn trong phạm trù “sở hữu” (chiếm hữu, có…), đồng thời cũng bao gồm nghĩa “hiện hữu”. Nghĩa là, việc thành lập thể nghi vấn (interrogative) hay phủ định (negative) cũng giống như động từ thường (ordinary verb): phải sử dụng các trợ động từ to be, to do, to have. Vì thế, ta hãy thử khám phá tư duy “sở hữu” và “hiện hữu” trong các thí dụ sau đây:

- Did you have (= receive) the law that was put into effect through angels?[57] (Có phải các ngươi đã có lề luật do các thiên thần truyền không?) (Có phải các ngươi đã nhận lề luật do các thiên thần truyền không?)

các ngươi đã có lề luật (sở hữu) + các ngươi đã nhận lề luật (hiện hữu) … trong yêu thương

- By examining him yourself will you be able to have (= will you be able to learn) the truth about all these charges we are bringing against him?[58] (Tra hỏi hắn ta, có phải chính ngài sẽ có thể có được sự thật về những cáo trạng mà chúng tôi đưa ra chống lại hắn?) (Tra hỏi hắn ta, có phải chính ngài sẽ có thể biết được sự thật về những cáo trạng mà chúng tôi đưa ra chống lại hắn?)

chính ngài sẽ có thể có (sở hữu) + chính ngài sẽ có thể biết (hiện hữu) → … trong yêu thương

- They have had (= have drunk) too much wine[59]. (Họ đã có quá nhiều rượu.) (Họ đã uống quá nhiều rượu.)

đã có (sở hữu) + đã uống (hiện hữu) … trong yêu thương

- Since they were having (= were spending) many days there, Festus discussed Paul’s case with the king[60]. (Bởi họ có tại đó nhiều ngày, Festus đã thảo luận vụ Phao-lô với nhà vua.) (Bởi họ đã lưu lại đó nhiều ngày, Festus đã thảo luận vụ

Phao-lô với nhà vua.) họ có tại đó nhiều ngày (sở hữu) + họ đã lưu lại đó nhiều ngày (hiện hữu) … trong yêu thương

- We have not had (= have not received) any letters from Judea concerning you[61]. (Chúng tôi đã không có được thư từ gì từ Judea gửi mà có liên quan đến ông.) (Chúng tôi đã không nhận được thư từ gì từ Judea gửi mà có liên quan đến ông.)

không có được thư từ gì (sở hữu) + không nhận được thư từ (hiện hữu) → … trong yêu thương

Với kết cấu have + n / pro + bare inf / pp / adj / pres p

Trong những trường hợp như thế, to have với kết cấu have + n / pro + bare inf / pp / adj / pres p vẫn là thực động từ (full verb), là động từ thường (ordinary verb), là ngoại động từ (transitive verb) và vẫn trong phạm trù “sở hữu” (chiếm hữu, có…), đồng thời cũng bao gồm nghĩa “hiện hữu”. Nghĩa là, have + n / pron + bare inf / pp là kết cấu tạo thành thể truyền khiển (causative form), chỉ ra một hành động được thực hiện do sự sai bảo, xui khiến, mướn, nhờ… của một người khác; còn have + n / pron + adj / pres p là biến thể của nó với ý nghĩa tương tự[62]. Vì thế, ta hãy thử khám phá tư duy “sở hữu” và “hiện hữu” trong các thí dụ sau đây:

- Though they found no proper grounds for a death sentence, they asked Pilate to have (= to get) them execute Jesus[63]. (active sense) (Mặc dầu không tìm ra được lý do chính đáng nào cho bản án tử hình, họ vẫn xin Phi-la-tô cho họ có Chúa Giê-su để hành hình.) (Mặc dầu không tìm ra được lý do chính đáng nào cho bản án tử hình, họ vẫn xin Phi-la-tô để họ hành hình Chúa Giê-su.)

xin Phi-la-tô cho họ có Chúa Giê-su để hành hình (sở hữu) + xin Phi-la-tô để họ hành hình Chúa Giê-su (hiện hữu) → … trong yêu thương

- Take these men, join in their purification rites and pay their expenses, so that they can have (= can get) their heads shaved[64]. (passive sense) (Hãy đem những người này theo, tham gia vào những nghi thức thanh tẩy của họ và trả các chi phí cho họ, để họ có thể được cạo đầu.) (Hãy đem những người này theo, tham gia vào những nghi thức thanh tẩy của họ và trả các chi phí cho họ, để họ có thể cạo đầu những người này.)

họ có thể được cạo đầu (sở hữu) + họ có thể cạo đầu những người này (hiện hữu) → … trong yêu thương

- Lord, I have many things reported about this man[65]. (Lạy Chúa, con đã được nhiều báo cáo về người này.) (Lạy Chúa, con đã nghe nhiều báo cáo về người này.)

con đã được nhiều báo cáo về người này (sở hữu) + con đã nghe nhiều người báo cáo về người này (hiện hữu) → … trong yêu thương

- God had (= got) heaven open (adj) and the Son of Man standing (pres p) at the right hand of God[66]. (Thiên Chúa đã cho (có) trời mở ra và để Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.) (Thiên Chúa đã bảo trời mở ra và để Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.)

 đã cho (có) trời mở ra (sở hữu) + đã bảo trời mở ra (hiện hữu) → … trong yêu thương

Trong việc thành lập “thì”

Tư duy “sở hữu” (chiếm hữu, có…) cùng với nghĩa “hiện hữu” cũng xuất hiện… cả khi to have là trợ động từ (auxiliary verb), được ứng dụng để giúp cho việc thành lập các thì hoàn thành (perfect tenses) đối với nội động từ cũng như ngoại động từ. Vì thế, ta hãy thử khám phá tư duy “sở hữu” và “hiện hữu” trong các thí dụ sau đây:

- Have they had (vt) too much wine?[67] (Có phải bọn chúng đã có quá nhiều rượu rồi chăng?) (Có phải bọn chúng đã uống quá nhiều rượu rồi chăng?)

bọn chúng đã có (sở hữu) + bọn chúng đã uống (hiện hữu) → … trong yêu thương

- They were astonished and they took note that these men had been (vi) with Jesus[68]. (Họ kinh ngạc và nhận ra những người này đã từng có mặt với Chúa Giê-su.) (Họ kinh ngạc và nhận ra những người này đã từng ở với Chúa Giê-su.)

đã từng có mặt với Chúa Giê-su (sở hữu) + đã từng ở với Chúa Giê-su (hiện hữu) → … trong yêu thương

Tư duy “yêu thương…”

Để tiếp cận và học hiểu Lời Chúa, tư duy “hiện hữu” và tư duy “sở hữu” đều cần thiết và có nhiều ưu điểm. Cả hai đều cần được thể hiện trong tư duy “yêu thương…”. Nghĩa là, tư duy “yêu thương…” trong loveto love có thể bao gồm cả hai phạm trù “hiện hữu” của to be (đồng thời cũng phảng phất đôi chút tư duy “sở hữu”) và “sở hữu” của to have (đồng thời cũng phảng phất đôi chút tư duy “hiện hữu”). Thật vậy, đời sống Ki-tô hữu cần tư duy “hiện hữu” và tư duy “sở hữu” trong phạm trù loveto love. Sau đây là một số thí dụ về “love” và “to love”… vốn “luôn” bao gồm “hiện hữu” và “sở hữu”:

- The disciple whom Jesus loved stood nearby[69]. (Người môn đệ được Thầy Giê-su yêu mến [gồm “hiện hữu” và “sở hữu”] đứng bên cạnh.)

- I have made You known to them, and will continue to make You known in order that the love You have for Me may be in them and that I Myself may be in them[70]. (Con đã tỏ cho chúng biết Cha, và sẽ còn tỏ cho biết nữa, ngõ hầu lòng mến [gồm “hiện hữu” và “sở hữu”] Cha yêu Con ở trong chúng, và chính Con cũng ở trong chúng.)

- For God so loved the world that He gave His one and only Son[71]. (Quả vì Thiên Chúa đã quá yêu mến [gồm “hiện hữu” và “sở hữu”] thế gian đến đỗi Ngài đã thí ban Người Con Một của Ngài.)

- Simon, son of John, do you truly love Me more than these (love Me)?[72] (Si-môn, con của Gio-an, ngươi có yêu mến Ta hơn những người này [yêu mến Ta] [gồm “hiện hữu” và “sở hữu”] không?)

- To love Jesus really, also means to love everyone, but anyone who loves his father or mother more than Jesus is not worthy of Him[73]. (Yêu mến [gồm “hiện hữu” và “sở hữu”] Chúa Giê-su cách thực sự, tất cũng có nghĩa là yêu mến [gồm “hiện hữu” và “sở hữu”] mọi người, nhưng ai yêu [gồm “hiện hữu” và “sở hữu”] cha hoặc mẹ mình hơn Chúa Giê-su thì không xứng với Người.)

Để tiếp cận và học hiểu Lời Chúa

Để có thể tiếp cận và học hiểu Lời Chúa cách hữu hiệu hơn, người ta luôn cần có phương pháp thích hợp; và một trong những phương pháp thích hợp chính là “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (loveto love)”.

Thật vậy, công thức để “tiếp cận và học hiểu Lời Chúa” luôn phải có: (1) các chất liệu không đổi là tư duy hiện hữu, tư duy sở hữu, phạm trù bác ái-tình yêu-xót thương; và (2) liều lượng cần sự linh hoạt thích nghi:

Với cấu trúc có to be thì “nhiều hiện hữu hơn sở hữu nhưng luôn tràn đầy “bác ái – tình yêu – xót thương”:

HIỆN HỮU

+

SỞ HỮU

BÁC ÁI – TÌNH YÊU – XÓT THƯƠNG

 

 

 

Với cấu trúc có to have thì “nhiều sở hữu hơn hiện hữu nhưng luôn tràn đầy “bác ái – tình yêu – xót thương”:

SỞ HỮU

+

HIỆN HỮU

BÁC ÁI – TÌNH YÊU – XÓT THƯƠNG

 

Nếu để “tiếp cận và học hiểu Lời Chúa” vốn là vậy thì phải chăng triết lý sống của Ki-tô hữu cũng cần phải thay đổi theo tư duy hiện hữu, sở hữu… trong phạm trù yêu thương như vậy? Vâng, Ki-tô hữu nói chung, cách riêng những người đứng đầu, những vị hữu trách, nhất là các mục tử cần phải thay đổi, cần thích ứng, trở về với công lý, công bằng, tình yêu và lòng thương xót… dưới ánh sáng nguồn cội là Thánh kinh?

Nói khác đi, cuộc sống của Ki-tô hữu không chỉ cần có chiều rộng “bao la”, chiều cao “ngất trời”… mà còn cần phải có chiều sâu “thấu hiểu”, cần phải tư duy theo phạm trù phẩm giá, nhân vị… trong Tin-Cậy-Mến. Nghĩa là, Ki-tô hữu với đức tin vững vàng cần phải hiểu và sống mối tương quan “thấu lý đạt tình” giữa công lý và lòng thương xót[74].

Bởi lẽ… đó “không phải là hai thực tại mâu thuẫn nhau, nhưng là hai chiều kích của một thực tại duy nhất mở ra dần dần cho đến khi đạt đến đỉnh điểm trong tình yêu viên mãn”[75]. Thật vậy, công lý là một khái niệm căn bản đối với xã hội dân sự, là sự công bằng hay chính nghĩa; còn lòng thương xót, hay đúng hơn lòng Chúa xót thương thì không vậy![76]

Misericordiae vultus, số 20,1-3

Không là vô ích để nhắc lại nơi đây về mối tương quan giữa công lý và lòng thương xót. (APV 20,1) Đây không phải là hai thực tại mâu thuẫn nhau, nhưng là hai chiều kích của một thực tại duy nhất mở ra dần dần cho đến khi đạt đến đỉnh điểm trong tình yêu viên mãn. (APV 20,2) Công lý là một khái niệm căn bản đối với xã hội dân sự, có nghĩa là được “quy luật chi phối”[77]. (APV 20,3)

Chút suy tư…

Nếu lời nhận định về một trong những thực tại xã hội: “Con người như một cỗ máy, được nhìn theo phạm trù hiệu năng, thiếu chiều sâu, tư duy theo phạm trù ‘sở hữu’ (to have: tiền, của cải) chứ không phải là ‘hiện hữu’ (to be: phẩm giá)”[78] là lời cảnh tỉnh đáng cho chúng ta xem xét, bàn bạc và tìm phương thức thay đổi… thì lời Thánh vịnh sau đây lại thật là chí lý khi khẳng định: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”[79]. Theo đó, một trong những phương pháp thích ứng, cách thức thích hợp sẽ là: “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (loveto love)”.

Quả vậy, nếu công lý là sự công bằng hay chính nghĩa, là sự đúng đắn hay lẽ phải… là một khái niệm căn bản đối với xã hội dân sự, được “quy luật chi phối”… thì dường như phạm trù “sở hữu” (to have) nghiêng hẳn về thực tại này. Còn nếu lòng thương xót là sự biểu lộ tâm tình xót xa, mau mắn đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn của nhân loại, là sự khao khát muốn làm vơi đi những nỗi đau khổ như thế thì dường như phạm trù “hiện hữu” (to be) có phần nghiêng mạnh hơn theo thực tại này[80]. Nhưng cả hai, “hiện hữu” nơi to be và “sở hữu” nơi to have, đều hiện hữu trong nhau và sở hữu cùng nhau theo mức độ ít nhiều tùy từng trường hợp.

Đặc biệt, xa hơn và cao hơn bội phần về mặt ý nghĩa thực tiễn và tâm linh thiết yếu chính là lòng Chúa xót thương, một sự tổng hòa vượt trội của tình yêu thương xót. Đó là sự biểu lộ tình thương của Thiên Chúa Tình Yêu trước những hoàn cảnh khó khăn của con người. Lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là công lý theo nghĩa tự nhiên nhưng bao hàm chính công lý một cách tất yếu.

Lòng Chúa xót thương không chỉ có phạm trù “sở hữu” (to have: tiền, của cải) mà còn có phạm trù “hiện hữu” (to be: phẩm giá)[81]. Tình yêu xót thương (merciful love) của Thiên Chúa mang chiều kích “loving”, gồm cả “sở hữu” (to have) và cả “hiện hữu” (to be), gồm… hai chiều kích của một thực tại duy nhất, đang dần mở ra, và ngày càng sâu sắc, cho đến khi đạt đến đỉnh điểm “tuyệt đối” trong tình yêu viên mãn “tuyệt vời”[82].

Câu hỏi gợi ý

1. Hai thuật ngữ “công lý” và “lòng thương xót” có phải là hai thực tại mâu thuẫn nhau không? Phải hiểu như thế nào? Tại sao? Hãy áp dụng vào thực tiễn sao cho thật hữu ích.

2. Cuộc sống của Ki-tô hữu không chỉ cần có chiều rộng “bao la”, chiều cao “ngất trời”… mà còn cần phải có chiều sâu “thấu hiểu”, cần phải tư duy theo phạm trù phẩm giá, nhân vị… nghĩa là làm sao? Nếu công lý là sự công bằng hay chính nghĩa, là sự đúng đắn hay lẽ phải… thì có phải phạm trù “sở hữu” nghiêng hẳn về thực tại này? Nếu lòng thương xót là sự biểu lộ tâm tình xót xa, mau mắn đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn, là sự khao khát muốn làm vơi đi những nỗi đau khổ… thì có phải phạm trù “hiện hữu” nghiêng về thực tại này?[83] Thế nào là một sự tổng hòa vượt trội của tình yêu xót thương?

3. Theo bạn, lời khẳng định “Con người như một cỗ máy, được nhìn theo phạm trù hiệu năng, thiếu chiều sâu, tư duy theo phạm trù ‘sở hữu’ (to have: tiền, của cải) chứ không phải là ‘hiện hữu’ (to be: phẩm giá)”[84] đang phản ánh đúng thực tế? Vậy chúng ta phải thay đổi và thích ứng như thế nào, cách riêng trong mục vụ? Phương pháp “Tiếp cận và học hiểu Lời Chúa: tư duy hiện hữu (to be), sở hữu (to have) trong phạm trù yêu thương (loveto love)” có phải là một trong những đáp án khả dĩ không? Thiết yếu?

Trích: Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 134 (Tháng 3 & 4 năm 2023)



[1] Exodus 3:14: “God replied to Moses: I am Who I AM. Then he added: This is what you will tell the Israelites: I AM has sent me to you”.

[2] X. Dr. Michael LeFebvre, “I Am Who I Am? The Real Meaning of God’s Name in Exodus” (Feb 15, 2022) (https://hebraicthought.org/meaning-ofgods-name-i-am-exodus/).

[3] Xh 3,13-15.

[4] X. Edward Zalta, “Existence” (2016) trong The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Winter 2016 ed.), Metaphysics Research Lab, Stanford University.

[5] Exodus 3:14: “God replied to Moses: I am who I AM. Then he added: This is what you will tell the Israelites: I AM has sent me to you”.

[6] X. Xh 3,12-14 (“I am Who I AM… I AM has sent me to you”)

[7] BHvNB, Sỏi đá vẫn cần có nhau, T2, số 53.

[8] X. Nguyễn Năng, Tình Chúa trung kiên: “ĐK. Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan hững hờ. Vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. PK1. Một ngày nào mà ta chối Ngài, Ngài phải đành lòng mà chối ta. Nhưng dù ta bất tín, dù ta phản bội, Ngài cũng vẫn trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình. PK 2. Người mẹ nào từ bỏ con mình, cạn tình cùng kẻ mình đã sinh. Nhưng dù ai giết chết tình yêu người mẹ, thì Ta vẫn muôn đời, chẳng hề quên kẻ Ta xót thương. PK3. Rồi ngày nào mà ta thất vọng, hãy hồi tưởng từng ngày ruổi rong. Bao tình yêu cháy nóng, kỳ công chất chồng, lòng sẽ vững như đồng, cậy vào ân tình Chúa thắm nồng. PK4. Và ngàn điều lòng không dám mơ, và nghìn điều lòng chẳng dám ngờ, những điều ta bỡ ngỡ, lòng ta sững sờ, Ngài sẽ đoái thi hành, vì Ngài luôn là Chúa tín thành”.

[9] X. Lane D. Pederson, Dialectical Philosophy, First published (06 February 2015): “Dialectical philosophy originates from ancient Greek philosophers such as Plato and Socrates, who used dialectical persuasion to resolve disparate viewpoints. Although dialectics can certainly involve logic, the use of dialectical philosophy in dialectical behavior therapy (DBT) also recognizes personal truths that may not withstand a purely logical analysis but can be understood given the context of one’s internal frame of reference. In DBT, therapists and clients apply dialectical philosophy to bring balance and guidance to the therapeutic alliance, the treatment, and life. The most fundamental dialectic in DBT is validation versus change. A dialectical stance finds what is adaptive in even the most maladaptive behaviors. Most therapists are naturally inclined to nurture clients. Dialectical abstinence means that clients and therapists take an undialectical stance when particular behaviors are so harmful that engaging in them cannot be justified.” (https:// doi.org/10.1002/9781118957882).

[10] X. Anthony Lilles and Dan Burke, Living the Mystery of Merciful Love:30 Days with Thérèse of Lisieux (https://stpaul center.com/an-introduction-livingthe-mystery-of-merciful-lo ).

[11] X. Stacey Laura Lloyd, The Difference Between Being in Love and Loving Someone, According to Experts: A look into the psychology behind love (Updated on 10/19/22), Licensed Mental Health Counselor (https://www.brides.com/whats-the-difference-between-being-in-love-and-love-3976739).

[12] X. Nguyễn Năng, Một khởi đầu mới (TTLM 5-1-2023).

[13] Ibid.

[15] X. Phan-xi-cô, Tông chiếu Dung nhan Lòng Xót Thương (Misericordiae vultus) (11-4-2015).

[16] X. Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót (Dives in misericordia) (30-11-1980).

[17] X. BHvNB, Ngữ liệu CIVEL, Tập 1 (TP. HCM: Nxb. Tôn Giáo, 2021), 533-41.

[18] Sử dụng tiếng La-tinh (Cogito, ergo sum) trong tác phẩm của mình, Descartes đã tạo ra một bút tích kỳ bí cho triết học, đặc biệt trong những thập niên 30-40 của thế kỷ XVII (https://diemsach.info/tac-gia-tac-pham/rene-descartes-toitu-duy-do-do-toi-hien-huu)

[19] X. Trường Quốc tế VNU (International School) (ĐHQGHN) Các chương trình đào tạo – Khoa Ngôn ngữ ứng dụng (https://www.is.vnu.edu.vn/gioithieu/khoa-nnud/cac-chuong-trinh-dao-tao-khoa-ngon-ngu-ung-dung/).

[20] Không nhất thiết phải kể vào số này những shall - should, will - would, may - might.

[21] Rõ ràng là tất cả các thì liên tiến (progressive tenses) đều do trợ động từ to be giúp tạo nên. Tuy không hẳn đã như vai trò của to have trong việc thành lập thì, nhưng to be trong kết cấu to be + to-infinitive làm công việc đáng được xếp vào loại này.

[22] Các hình thức khác nhau của động từ to be to be nguyên thể hiện tại (present infinitive), to have been nguyên thể hoàn thành (perfect infinitive), being động tính từ hiện tại (present participle), been động tính từ quá khứ (past participle), having been động tính từ quá khứ hoàn thành (perfect participle), động danh từ (gerund).

[23] Acts 4:13.

[24] X. Acts 27:33.

[25] X. “Cấu trúc there is, there are: ví dụ, cách dùng, bài tập” (https://langmaster.edu.vn/cau-truc-there-is-there-are-vi-du-cach-dung-bai-tap)

[26] X. Acts 7:12.

[27] X. Acts 24:18.

[28] X. Acts 25:16.

[29] X. Acts 2:24.

[30] X. Linking Verbs: Liên động từ trong Tiếng Anh IELTS (https://www.ieltsvietop.vn/blog/linking-verbs-lien-dong-tu/).

[31] Acts 4:11.

[32] Acts 5:17.

[33] Tham khảo: “Any mental or psychological disorder, such as mental retardation, organic brain syndrome, emotional or mental illness, and specific learning disabilities. The term physical or mental impairment includes, but is not limited to, such diseases and conditions as orthopedic, visual, speech and hearing impairments, cerebral palsy, autism, epilepsy, muscular dystrophy, multiple sclerosis, cancer, heart disease, diabetes, Human Immunodeficiency Virus infection, mental retardation, emotional illness, drug addiction (other than addiction caused by current, illegal use of a controlled substance) and alcoholism.” (https://www.law.cornell.edu/de).

[34] Il a trente ans (tiếng Pháp) (avoir trong tiếng Pháp được xem là tương đương với to have trong tiếng Anh).

[35] X. Acts 2:44

[36] X. Acts 2:26

[37] X. Acts 12:6

[38] Acts 21:16

[39] Acts 15:29

[40] X. Tạ, Ngữ pháp tiếng Anh: Động từ (TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Phương Đông, 2007), 208-15.

[41] Acts 1:20.

[42] Acts 4:9.

[43] Acts 22:10

[44]to be là thực động từ (full verb) hay trợ động từ (auxiliary verb), nếu trong câu đã có to be thì việc thành lập thể nghi vấn (interrogative) hay phủ định (negative) trong các loại câu: câu hỏi có-không (yes-no questions), câu hỏi với từ nghi vấn (wh-questions), câu hỏi lựa chọn (alternative questions), câu hỏi láy (tag questions)… luôn luôn do to be đóng vai trò thiết yếu. Nghĩa là, trong câu nghi vấn sẽ có sự hoán chuyển vị trí của to be lên trước chủ ngữ (trừ trường hợp từ nghi vấn đóng vai chủ ngữ); trong câu phủ định not đi ngay sau to be. Thí dụ:

- Lord, are you at this time going to restore the kingdom to Israel? (Acts 1:6) (Lạy Chúa, phải chăng phen này Ngài sẽ khôi phục vương quốc cho Ít-raen?)

- Why shouldn’t I be baptized? (Acts 8:36) (Tại sao tôi lại không chịu thánh tẩy nhỉ?)

- Who is the prophet talking about, himself or someone else? (Acts 8:34) (Vị tiên tri đang nói về ai, chính ông ta hay một người khác?)

- And after it was sold, wasn’t the money at your disposal? (Acts 5:4) (Sau khi nó được bán đi, chẳng lẽ tiền bạc ấy lại không tuỳ thuộc ngươi sử dụng?)

- We are all here, aren’t we? (cf. Acts 16:28) (Tất cả chúng tôi đều còn đây mà, phải không nào?)

[45] Acts 26:15

[46] Acts 1:7.

[47] X. Ta, Mariology, 273, footnote.

[48] Acts 26:12

[49] BHvNB, Ngữ liệu CIVEL, Tập 1 (TP. HCM: Nxb. Tôn Giáo, 2021), 541-8.

[50] Thật vậy, các thí dụ sau đây chẳng hạn; tất cả đều tiềm ẩn ít nhiều tư duy “sở hữu”: to have breakfast: ăn sáng; to have some tea: uống một chút trà; to have a good time: được hưởng một thời gian vui thích; I will not have you say such things: tôi không cho anh nói những điều như vậy.

[51] “Anh ta không làm việc gì cả” (He does not do anything) thì chắc chắn khác với “Anh ta không có việc gì để làm” (He has nothing to do).

[52] Còn khi có nghĩa là “tạm thời, cá biệt… hoặc có thể chuyển thành cấu trúc với there + to be (there is / are…), to have được xếp vào loại bất thường (anomalous verb). Nghĩa là, to have loại này không cần đến trợ động từ to do (trường hợp này thường thêm got sau have), song sẽ do việc hoán chuyển vị trí với chủ ngữ mà tạo nên thể nghi vấn, và đi ngay trước not để tạo thể phủ định.

[53] X. Acts 25:16.

[54] X. Acts 3:6.

[55] Acts 8:21.

[56] To have cũng là thực động từ (full verb), là động từ thường (ordinary verb) khi có nghĩa: ăn uống (to take), tiếp đãi (to entertain) nhận được (to receive), học (to learn), gặp phải (to encounter), trải qua (to experience).

[57] X. Acts 7:53.

[58] Acts 24:8.

[59] X. Acts 2:13.

[60] X. Acts 25:14.

[61] Acts 28:21.

[62] Trong những trường hợp này, người ta phải sử dụng trợ động từ to do để thiết lập thể nghi vấn và phủ định.

[63] X. Acts 13:28.

[64] Acts 21:24.

[65] X. Acts 9:13.

[66] X. Acts 7:56.

[67] X. Acts 2:13.

[68] Acts 4:13.

[69] Jn 19:26.

[70] Jn 17:26.

[71] Jn 3:16.

[72] Jn 21:15.

[73] Mt 10:37.

[74] X. APV 20,1.

[75] APV 20,2.

[76] APV 20,3.

[77] Phan-xi-cô, Misericordiae vultus, số 20,1-3.

[78] X. Nguyễn Năng, Một khởi đầu mới (TTLM 5-1-2023).

[79] Tv 119,105.

[80] X. BHvNB, “Tiếp cận và học hiểu lời Chúa: tồn tại, sở hữu, hữu thể (to be, to have, being) trong đời sống Ki-tô hữu” trong Mục vụ ngành nghề: Hiểu và sống Tin-Cậy-Mến…, T8, 387-9.

[81] X. Nguyễn Năng, Một khởi đầu mới….

[82] X. APV 20,2.

[83] X. BHvNB, “Tiếp cận và học hiểu lời Chúa: tồn tại, sở hữu, hữu thể (to be, to have, being) trong đời sống Ki-tô hữu” trong Mục vụ ngành nghề: Hiểu và sống Tin-Cậy-Mến…, T8, 387-9.

[84] X. Nguyễn Năng, Một khởi đầu mới….

Tag:

2023-07-10