CÁC CHIỀU KÍCH THẦN HỌC CỦA LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN
CHIỀU KÍCH BA NGÔI
TS Tôma Nguyễn Như Danh
WHĐ (26.4.2023) – Điểm nổi bật trong linh đạo giáo lý viên là
nên thánh qua việc dạy giáo lý. Con đường nên thánh ấy mang các chiều kích thần
học: Ba Ngôi, Giáo Hội, truyền giáo và trần thế. Ơn gọi và sứ mạng giáo lý viên
cắm rễ sâu trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ơn gọi đó được thể hiện rõ nét qua
Giáo Hội, ở đó giáo lý viên được sai đến với thế giới để loan báo Tin mừng.
Bài viết này được trình bày chiều kích thứ nhất của linh đạo giáo lý
viên. Đó là chiều kích Ba Ngôi với nội dung như sau:
DANH MỤC VIẾT TẮT
GC : Guide for Catechists. 1993
GDFC : General Directory for Catechesis, 1997.
GDFC 2020 : Directory for Catechesis, 2020.
GH : Hiến chế tín lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”. 1964
GLCG : Giáo lý Hội Thánh Công Giáo. 1992
KTHGD : Tông huấn Kitô
hữu giáo dân “Christifideles Laici”.1988
* * *
LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN: CHIỀU KÍCH BA NGÔI
Giáo lý viên được mời gọi sống
kết hợp mật thiết với Chúa Ba ngôi, nhờ đó họ trở nên hình ảnh sống động của
tình yêu Thiên Chúa giữa cuộc đời này bằng đời sống kết hợp mật thiết với Chúa
Ba Ngôi, đồng thời loan báo Chúa Ba Ngôi và chương trình cứu độ của Ngài.
Giáo lý viên được mời gọi đến với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và
qua Chúa Thánh Thần. Họ được tham dự vào tình yêu của Chúa Cha, được thông hiệp
với Đức Kitô và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và biến đổi thành những chứng
nhân can đảm:
“Đón nhận một Chúa Ba Ngôi, Đấng ngự trong đáy lòng con người và đem lại
ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của họ: nguồn xác tín, những tiêu chuẩn, bậc
thang các giá trị, quyết định, quan hệ, cư xử… Giáo lý viên phải được lôi cuốn
vào bầu khí của Chúa Cha, Đấng ngỏ lời; của Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng
chỉ loan báo mọi lời đã nghe được từ Chúa Cha (Ga 8, 26; 12, 49); của Chúa
Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí và sưởi ấm con tim để giúp hiểu Lời Chúa,
trung thành yêu mếu và thực thi Lời Chúa (Ga 16, 12 –14).
Như thế linh đạo giáo lý viên bén rễ trong Lời hằng sống theo chiều
kích Ba Ngôi, như thấy trong ơn cứu độ và trong sứ mạng phổ quát. Điều này bao
hàm một thái độ liên kết bên trong, tức là tham dự vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng
muốn mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (1 Tm 2, 4); là hiệp thông với
Đức Kitô, bằng cách chia sẻ các “tâm tình” của Người (Pl 2,5) và như thánh
Phaolô, sống kinh nghiệm về sự hiện diện thường xuyên và khích lệ của Đức Kitô;
“Đừng sợ… vì Ta ở cùng con” (Cv 18, 9 – 10), bằng cách để Chúa Thánh Thần hướng
dẫn và biến đổi thành chứng nhân can đảm của Đức Kitô và thành người loan báo Lời
Chúa có kinh nghiệm.” (GC 7)
1.1 Giáo lý viên sống mối tương quan thân mật
với Chúa Ba Ngôi
Thiên Chúa kêu gọi giáo lý viên sống thân mật với Ngài lần đầu
qua bí tích rửa tội, lần tiếp theo qua ơn gọi giáo lý viên.
Nhờ Bí tích Thánh tẩy, giáo lý viên được trở nên con cái
Thiên Chúa để sống mối tương quan thân mật với Chúa Ba Ngôi. Họ được trở nên tạo
vật mới trong Chúa Kitô, trở nên con trong Con Một của Ngài.
Qua ơn gọi giáo lý viên, họ được Thiên Chúa gọi thêm một lần
nữa để sống tương quan thân tình đó một cách sâu sắc hơn. Ba Ngôi Thiên Chúa trở
thành nguồn mạch sự sống và thay đổi toàn bộ cuộc đời họ từ cách suy nghĩ, ứng
xử, hành động đến những mối quan hệ khác.
1.2 Giáo lý viên đến với Chúa Ba Ngôi nhờ Đức
Kitô.
Giáo lý viên được tham dự vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn
mọi người nhận biết chân lý để được cứu độ[1].
Nhưng làm sao có thể nhận biết được Cha là Thiên Chúa duy nhất nếu không nhờ Đức
Giêsu Kitô vì chỉ nhờ Người mà chúng ta đến được cùng Chúa Cha. Chính vì thế mà
giáo lý viên cần mang mặc tâm tình con thảo của Đức Kitô là luôn sống vâng phục
thánh ý Chúa Cha và đón nhận ý Cha làm lương thực nuôi sống mình: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo
ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6, 38). Đức Kitô làm theo ý
Đấng đã sai Người nên suốt cuộc đời Người luôn luôn tìm kiếm chiên lạc[2], đem lại sự sống dồi dào
phong phú cho đoàn chiên[3], và hiến mạng sống mình để
muôn người được thánh hiến[4] và được sống đời đời.
Để nên giống Đức Kitô và mang những tâm tình của Người, giáo
lý viên cần phải gắn chặt cuộc đời của mình với Đức Kitô như cành nho liên kết
với cây nho: “Thầy là cây nho, anh em là
cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều
hoa trái” (Ga 15, 5).
Nhờ liên kết với Đức Kitô mà giáo lý viên đón nhận được sự sống
của Thiên Chúa vì sự sống của Thiên Chúa được tuôn đổ trên chúng ta qua Đức
Kitô nhờ Thánh Thần. Bởi thế, điều cơ bản của đời sống Kitô hữu và cũng là của
mỗi giáo lý viên không phải là làm việc này, việc nọ[5],
nhưng là làm sao để cuộc đời mình thuộc về Đức Kitô để họ có thể nói lên như
thánh Phaolô “Tôi sống nhưng không phải
là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Việc nên thánh của giáo
lý viên cốt yếu không phải là làm điều này, điều nọ hay càng dạy giáo lý nhiều
thì càng mau nên thánh. Nói như thế không có nghĩa là mình không cần nhiệt tâm
dạy giáo lý và không mấy tha thiết với sứ mạng nữa. Không dạy giáo lý thì giáo
lý viên đánh mất căn tính của mình. Đánh mất căn tính mình thì đâu còn là giáo
lý viên đúng nghĩa nữa. Nghĩa là chối bỏ việc nên thánh trong ơn gọi là giáo lý
viên. Trái lại, vì yêu mến Đức Kitô, vì muốn gắn bó với Người, giáo lý viên sẽ
cố gắng sống như Người, và làm công việc của Người. Qua những công việc đó giáo
lý viên sẽ tìm gặp Đức Kitô, gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô, và đi vào mối
tương giao thân mật với Đức Kitô mỗi ngày một hơn. Bởi thế, khi thi hành tác vụ
huấn giáo, giáo lý viên không tìm những công việc trước hết, nhưng trước hết và
trên hết là tìm gặp Đức Kitô và nên một với Người. Đây là điều cốt yếu nhất.
1.3 Giáo lý viên đến với Chúa Ba Ngôi nhờ
Chúa Thánh Thần.
Giáo lý viên được tham dự vào tình yêu của Chúa Cha nhờ Đức
Giêsu Kitô trong môi sinh tình yêu là Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần là Thầy
dạy nội tâm sẽ dẫn đưa giáo lý viên vào trong tương quan thâm sâu với Ba Ngôi
Thiên Chúa. Tông huấn Dạy giáo lý số 72 đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần, vì
Ngài là:
- Căn nguyên cảm hứng mọi công cuộc dạy giáo lý trong Hội
Thánh.
- Thầy nội tâm, Thần Khí được hứa ban cho Hội Thánh và cho mọi
tín hữu như Thầy nội tâm, Đấng, trong nơi bí ẩn của lương tâm và quả tim, làm
cho người ta hiểu điều mà người ta đã nghe nhưng không thể lãnh hội được.
- Biến đổi các môn đệ thành chứng nhân của Đức Kitô: “Ngài sẽ làm chứng về Ta” và “các ngươi cùng làm chứng” (Ga 15, 26
–27).
- Tất cả đời sống kitô hữu, đời sống của con cái Thiên Chúa
đều là đời sống theo Thần khí (x. Rm 8, 14 –17; Gl 4, 6). Chỉ một mình Thần khí
cho phép chúng ta đến với Thiên Chúa và thưa lên rằng “Abba, lạy Cha” (Rm 8, 15) và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa (1 Cr 12,
3).
Thế nên, việc tăng trưởng đời sống đức tin của giáo lý viên
cũng như của các học viên là do tác động của Chúa Thánh Thần:
“Việc dạy giáo lý, tức là sự tăng trưởng trong đức tin và già dặn trong
đời sống Kitô hữu cho tới sung mãn, là một công cuộc của Chúa Thánh Thần, công
trình mà một mình Người có thể khơi dậy và nuôi dưỡng trong Hội Thánh” (DGL 72)
Từ điều này đưa đến 2 xác tín:
Xác tín 1: Giáo lý viên phải nên khí cụ khôn ngoan của
Chúa Thánh Thần
“Khi thực hiện sứ mệnh
giáo lý viên – cũng như mỗi Kitô hữu làm việc ấy trong Hội Thánh và nhân danh Hội
Thánh - Hội Thánh phải ý thức sâu xa rằng mình hành động như một công cụ sống động
và khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, luôn luôn kêu cầu Thần khí, thông hiệp với
Người, cố gắng để hiểu biết Người linh hứng, đó phải là thái độ của Hội Thánh
giảng huấn và của mọi giáo lý viên”. (DGL 72)
Xác tín 2: Chúa Thánh Thần đổi mới việc dạy giáo lý nhờ
ước vọng chúng ta nài xin.
- “Phải làm thế nào để
ước vọng sâu xa muốn hiểu rõ hơn tác động của Thần khí và phó thác mình cách
toàn vẹn hơn cho Ngài; phải làm thế nào để ước vọng đó gây ra được sự phục hưng
việc dạy giáo lý.”(DGL 72)
Xác tín đó giúp giáo
lý viên ngoan ngoãn vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để trở nên khí cụ
sống động của Ngài và luôn luôn cầu xin Ngài biến đổi mình và các học viên. Đồng
thời biết phó thác việc dạy giáo lý cho Ngài, xin Ngài phục hưng việc dạy giáo
lý.
2. Giáo lý viên loan truyền Chúa Ba Ngôi.
Giáo lý viên sống với Chúa Ba Ngôi và múc lấy ở Ba Ngôi tình
yêu và sự sống đời đời. Tình yêu và sự sống ấy giáo lý viên trao ban cho anh chị
em qua đời sống chứng tá và qua việc dạy giáo lý.
2.1 Giáo lý viên loan báo Chúa Ba Ngôi bằng
đời sống.
Ơn gọi giáo lý viên mời gọi sống và làm chứng cách triệt để tình yêu cứu
độ của Ba Ngôi. Nếu như Thiên Chúa Ba Ngôi thực hiện chương trình cứu độ của
mình qua dòng lịch sử, thì giáo lý viên cũng được mời gọi cộng tác với chương
trình cứu độ đó qua cuộc sống của mình. Để được như thế, giáo lý viên phải là
người sống thân mật với Chúa Ba Ngôi nhờ Đức Kitô. Nhờ sống thân mật với Ba
Ngôi, giáo lý viên đón nhận được “nguồn
mạch tình yêu” của Ba Ngôi, để thực sự trở nên hình ảnh tuyệt hảo này:
“Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu chuộc bắt nguồn từ “nguồn mạch Tình yêu”, nghĩa là từ tình
yêu muôn thuở của Chúa Cha: nơi Ngôi Lời đã làm người và cứu chuộc loài người
(Ga 1, 14): nơi Thánh Thần được ban tặng để thánh hoá loài người và thiết lập Hội
Thánh để đi đến Chúa Cha nhờ Đức Kitô trong cùng một Thánh Thần (Ep 2, 18) (GC
7).
Giáo lý viên thể hiện tình yêu cứu độ của Ba Ngôi trước hết
bằng cuộc sống của mình. Cuộc sống ấy thấm nhập tình yêu mà họ đón nhận được từ
Chúa Ba Ngôi. Họ phải là người cảm nghiệm sâu sắc tình yêu cứu độ của Thiên
Chúa, và biểu lộ điều ấy ra bên ngoài bằng cuộc sống yêu thương, dấn thân phục
vụ. Hơn nữa, nếu xác tín và nếm cảm được Thiên Chúa cứu độ mình, thì giáo lý
viên không thể không loan truyền tình yêu cứu độ đó của Thiên Chúa cho anh chị
em.
Thật vậy, mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh Thiên
Chúa. Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, con người bước vào đời sống trong Chúa Ba Ngôi.
Con người mới này là con của Thiên Chúa vì được thông phần bản tính của Thiên Chúa
nhờ Đức Kitô[6], là người sống mối tương
quan thân mật với Ba Ngôi và với anh chị em. Bí tích Thêm sức giúp giáo lý viên
kiện toàn đời sống làm chứng cho Ba Ngôi Thiên Chúa. Hiệu quả bí tích Thêm sức
trở nên rõ nét nhất là khi người lãnh nhận làm chứng cho Thiên Chúa qua việc sống
và loan báo tình yêu cứu độ của Ba Ngôi.
Chính Chúa Giêsu là khuôn mẫu cho tất cả giáo lý viên. Hơn
ai hết, Người sống kết hợp thâm sâu với Ba Ngôi Chí Thánh vì chính Người cũng
là một ngôi trong ba ngôi vị của cùng bản thể. Chúa Giêsu ở trong Chúa Cha và
Chúa Cha ở trong Chúa Giêsu[7]. Ngài khẳng định “Ta và Cha Ta là Một” (Ga 10, 30). Thánh
Thần là Tình Yêu giữa Cha và Con. Thánh Thần của Cha (Ga 15, 26) cũng là của
Con (Gl 4, 6; Rm 8, 9; 2Cr 3, 17). Sự thâm sâu đó của Ba Ngôi là Mầu Nhiệm Một
Chúa Ba Ngôi mà giáo lý viên tuyên xưng. Vì thế, giáo lý viên cần phải biết gắn
bó đời sống mình với Chúa Ba Ngôi, nên một với Ba Ngôi nhờ Chúa Giêsu Kitô.
2.2 Giáo lý viên loan báo Chúa Ba Ngôi bằng
lời nói.
Sứ điệp giáo lý viên loan truyền không phải là ý kiến riêng
tư của mình mà là sứ điệp Kitô giáo, sứ điệp ấy mang tính quy Kitô và quy Ba
Ngôi.
Tính quy Kitô của sứ điệp Tin Mừng nghĩa là:
+ Trước hết, “trọng
tâm của việc khoa dạy giáo lý, cốt yếu có một Ngôi vị, tức là Ngôi vị của Đức
Giêsu thành Nazaréth, Con một của Chúa Cha, tràn đầy ân sủng và sự thật”
(Ga 1, 14). Đấng đã chịu nạn và chịu chết
cho chúng ta và giờ đây, sau khi đã sống lại, đang ở cùng chúng ta mãi
mãi. Chính Chúa Giêsu Đấng là “Đường, là Sự Thật, và Sự Sống,”(Ga 16, 4)
và sống đời Kitô hữu là theo Đức Kitô, là nối gót Đức Kitô. (x. DGL số 5).
Trong thực tế, bổn phận nền tảng của việc dạy giáo lý là
trình bày Đức Kitô và những điều liên hệ đến Người. Điều này dẫn đến việc theo
Đức Giêsu và hiệp thông với Người. Mọi yếu tố của sứ điệp phải theo hướng này[8].
+ Thứ đến, tính quy Kitô có nghĩa là việc dạy giáo lý phải
trình bày cho thấy Đức Kitô là “trung tâm
của lịch sử cứu độ”[9]. Người là Đấng hoàn tất lịch
sử cứu độ, là trung tâm và là cùng đích của lịch sử cứu độ[10].
Sứ điệp huấn giáo giúp các Kitô hữu đặt mình vào lịch sử cứu độ và dấn thân vào
trong lịch sử ấy bởi chính Đức Kitô là ý nghĩa tối hậu của lịch sử cứu độ này[11].
+ Hơn nữa, tính quy Kitô nghĩa là sứ điệp Tin mừng không đến
từ nhân loại, nhưng đến từ Lời Thiên Chúa. Hội Thánh và giáo lý viên nhân danh
Chúa Giêsu có thể nói rằng: “Đạo lý Ta dạy
không phải là của Ta mà là của Đấng đã sai Ta” (Ga 7, 16). Như thế, việc dạy
giáo lý là loan truyền “giáo lý của Đức
Giêsu Kitô, chân lý mà Người thông ban hay nói đúng hơn, Chân lý mà Người là hiện
thân” (DGL 6). Tính quy Kitô đòi buộc huấn giáo phải truyền đạt điều Đức
Giêsu đã dạy về Thiên Chúa, con người, hạnh phúc, đời sống luân lý, sự chết… mà
không được thay đổi giáo huấn ấy bằng bất cứ lý do gì[12].
+ Các sách Tin mừng tường thuật về cuộc đời Đức Giêsu là
trung tâm của sứ điệp huấn giáo. Thế nên trong việc dạy giáo lý, bốn sách Tin mừng
chiếm vị trí trung tâm bởi vì Đức Giêsu Kitô là trung tâm của Tin mừng.
Tính quy Kitô của sứ điệp giáo lý viên loan báo đòi buộc
giáo lý viên không được phép loan truyền học thuyết riêng của mình hay của một
vị thầy nào khác, nhưng họ phải thông truyền giáo lý của Đức Kitô[13]. Hay nói cách khác, trong
việc dạy giáo lý, chính Đức Kitô là Đấng giảng dạy, mọi người khác đều giảng dạy
tùy theo mức độ mà họ là phát ngôn viên của Người. Hơn nữa, dạy giáo lý là dẫn
đưa mọi người đến với Đức Kitô để được sống nên giáo lý viên không được tìm
cách lôi kéo học viên đến với mình, trái lại phải đưa họ đến với Chúa Kitô -
cùng đích tối hậu của việc dạy giáo lý.
Sứ điệp Tin mừng cũng mang tính quy Ba Ngôi. Thật vậy, trọng
tâm sứ điệp giáo lý viên loan truyền là Đức Kitô Nazaréth, Ngôi Lời của Chúa
Cha Đấng nói với thế giới qua Thánh Thần của Ngài[14].
Chúa Giêsu thường xuyên đề cập đến Chúa Cha và tỏ cho chúng ta biết Người là
Con Một của Chúa Cha. Chúa Giêsu cũng đề cập đến Chúa Thánh Thần. Người biết
Người được xức dầu Thánh Thần. Đức Giêsu là Đường dẫn chúng ta tới với mầu nhiệm
thâm sâu của Thiên Chúa. Tính quy Kitô của việc dạy giáo lý trong tính năng động
nội tại của nó là để dẫn đến việc tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa: Cha, Con
và Thánh Thần:
Tính quy Kitô thiết yếu cũng mang tính Ba Ngôi. Nhờ bí tích Thánh Tẩy,
Kitô hữu trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, “Một trong Ba Ngôi” [15],
và làm cho họ trở nên “con trong Con” trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần. Vì thế, đức tin của họ là đức tin Ba Ngôi. “Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
là mầu nhiệm trung tâm của đức tin và đời sống người Kitô hữu.”[16]
Theo Chỉ Nam huấn giáo 1997 số 100, chiều kích Ba Ngôi của sứ
điệp Tin mừng đòi buộc huấn giáo phải mang chiều kích Ba Ngôi trong cấu trúc nội
tại của nó, trong sư phạm và trong việc trình bày về Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu
và trong Chúa Thánh Thần.
+ Cấu trúc nội tại của
huấn giáo:
“Mỗi một hình thức trình bày sứ điệp phải luôn luôn nhờ Chúa Kitô để đến
với Chúa Ba Ngôi: Nhờ Đức Kitô để đến với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần”. Nếu
huấn giáo thiếu ba yếu tố này hay quên lãng tương quan chặt chẽ giữa Ba Ngôi
thì sứ điệp Tin mừng chắc chắn mất tính đặc trưng của nó” (GDFC 100).
Chỉ Nam Huấn giáo 1971 đã diễn giải rất rõ về điểm này trong
số 41 như sau:
“Chính Chúa Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ, cho nên mầu nhiệm
Thiên Chúa là trung tâm mà nhờ đó lịch sử này có nguồn gốc và hướng tới đó như
cứu cánh của mình. Chúa Kitô tử nạn và phục sinh dẫn đưa loài người tới Chúa
Cha nhờ việc sai Thánh Thần đến cùng Dân Chúa. Vì lý do này, cơ cấu của toàn thể
nội dung huấn giáo phải quy hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi: Nhờ Chúa Kitô, đến
cùng Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần.
Nhờ Chúa Kitô: toàn thể nhiệm cục cứu độ nhận được ý
nghĩa từ Ngôi Lời Nhập Thể. Nhiệm cục ấy chuẩn bị việc Người đến, tỏ lộ và mở rộng
Nước Người trên trần gian từ khi Người chết và sống lại cho tới khi Người đến lần
thứ hai trong vinh quang, mà hoàn tất công việc của Thiên Chúa. Vì thế, mầu nhiệm
Chúa Kitô soi sáng toàn thể nội dung huấn giáo. Những yếu tố khác nhau – Thánh
Kinh, Tin Mừng, Hội Thánh, con người và cả vũ trụ – mà huấn giáo phải chấp nhận
và giảng nghĩa, đều quy về Con Thiên Chúa Nhập Thể.
Đến cùng Chúa Cha: Mục đích tối hậu của việc Ngôi Lời Nhập Thể
và toàn thể nhiệm cục cứu độ là dẫn đưa mọi người đến cùng Chúa Cha. Vì vậy, huấn
giáo phải giúp người ta hiểu biết sâu xa hơn mãi về chương trình yêu thương này
của Cha trên trời, phải lưu tâm tỏ lộ cho người ta biết ý nghĩa tối hậu của đời
sống con người là nhận biết Thiên Chúa và tôn vinh Danh Ngài bằng cách thi hành
ý muốn của Ngài, như Chúa Kitô đã dạy chúng ta bằng lời nói và gương mẫu đời sống
của Người, và như thế đạt tới sự sống muôn đời.
Trong Chúa Thánh Thần: Sự nhận biết mầu nhiệm Chúa Kitô và con đường
dẫn đến Chúa Cha được thực hiện trong Chúa Thánh Thần. Vì vậy, huấn giáo, khi
trình bày nội dung sứ điệp Kitô giáo, phải luôn làm sáng tỏ sự hiện diện của
Chúa Thánh Thần, nhờ vậy con người luôn được thúc đẩy hiệp thông với Thiên Chúa
và với loài người và chu toàn các bổn phận của mình.
Nếu huấn giáo thiếu ba yếu tố này hoặc là sao lãng mối tương quan mật
thiết của chúng, thì sứ điệp Kitô giáo chắc chắn đánh mất đặc tính riêng biệt của
nó.” (GDC 41)
+ Theo phương pháp sư
phạm của Chúa Giêsu: Huấn giáo phải dùng phương pháp sư phạm mà Chúa Giê su
đã sử dụng để mạc khải mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi:
“Theo phương pháp sư phạm của Chúa Giêsu trong việc mạc khải về Chúa
Cha, về chính Người trong tư cách là Con, và về Chúa Thánh Thần, thì huấn giáo
phải bày tỏ được đời sống thân mật nhất của Thiên Chúa, bắt đầu với công cuộc cứu
độ vì lợi ích của nhân loại[17].
Công việc của Thiên Chúa mặc khải cho biết Ngài là ai và mầu nhiệm nội tại của
Ngài toả sáng trên tất cả công việc Ngài thực hiện. Đây là cách nói loại suy
trong tương quan nhân loại: con người thì biểu lộ chính mình qua những việc họ
làm, và càng biết sâu sắc về họ, ta càng hiểu điều họ làm hơn.” (GDFC 99)
+ Việc trình bày mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi được Đức Kitô mạc khải ngụ ý nói đến sự sống của con người.
Mầu nhiệm Ba Ngôi được Người mạc khải chính là Một Thiên Chúa duy nhất trong bản
thể có Ba ngôi vị. Khi tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Duy Nhất, nghĩa là
con người không được tôn thờ bất cứ thần minh nào khác, không được quy phục tự
do mà Ba Ngôi ban cho mỗi người. Trái lại, con người phải yêu thương nhau, tôn
trọng và bình đẳng vì mỗi người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba
Ngôi, cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và bình đẳng:
“Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất nghĩa là con người không
được quy phục tự do của mình một cách tuyệt đối đối với bất cứ quyền lực nào dưới
thế. Nó cũng ngụ ý nói rằng vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là
sự hiệp thông của mọi người, con người được mời gọi xây dựng một xã hội huynh đệ
của những người con cái Thiên Chúa, và một xã hội bình đẳng về nhân phẩm giữa mọi
người. Hội Thánh, khi tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi và khi loan báo mầu
nhiệm này cho thế giới, biết mình là “một dân được thâu họp lại trong sự hiệp
nhất của Cha, Con và Thánh Thần.”[18]
Tóm lại, nội dung huấn giáo mang tính quy Kitô vì Người là
trung tâm của lịch sử cứu độ, nhưng nó cũng mang tính Ba Ngôi vì việc tạo dựng
vũ trụ và việc cứu độ thế giới là công trình chung của cả Ba Ngôi. Việc dạy
giáo lý là trình bày công trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện
nhờ Đức Giêsu Kitô trong Thánh Thần nên nội dung [19]
của nó phải quy về Ba Ngôi. Để việc dạy giáo lý thực sự giúp con người sống
thông hiệp với Chúa Ba Ngôi nhờ Đức Giêsu Kitô, giáo lý viên cần theo sự hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần qua Hội Thánh.
THAM KHẢO
Catechism of the
Catholic Church. 1992. Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Congregation for the Clergy, General Catechetical Directory. 1971. Retrieved from Vatican.va
on 21 March 2022
Congregation for the Clergy, General Directory for Catechesis, 1997. Retrieved from Vatican.va
on 21 March 2022
Congregation for Evangelization of Peoples, Guide for Catechists. Document of
vocational, formative and promotional orientation of Catechists in the
territories dependent on the Congregation for Evangelization of Peoples.1993.
Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
John Paul II, Apostolic Exhortation Catechesi Tradendae (16 October 1979). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
John Paul II, Post-synodal Apostolic Exhortation, Christifedeles Laici (30 December 1988). Retrieved from Vatican.va on 21 March
2022
Vatican Council II, Pastoral Constitution the Church in the
Modern World. Gaudium et Spes (7
December 1965). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Tại sao tôi tham gia huấn giáo nhiều năm mà đời sống đức tin của tôi
không tiến bộ, và khi gặp khó khăn hay thất bại, tôi chán nản và bỏ cuộc? Đó phải
chăng là do tôi tìm kiếm công việc chứ không tìm kiếm Chúa? Lời bình của tác giả
bài viết.
2Pr 1, 4; x. Rm 8,29; 1Cr 1,49; 2Cr 3,18; 5,17; Cl 3,10; Dt 12,10
DCG (1971) 41a; x. DCG (1971) 39, 40, 44.
Cụm từ “Một trong Ba Ngôi”
được dùng bởi Công đồng Chung thứ 5: Constantinople 553
Tính quy Ba Ngôi này ta thấy rất rõ trong nội dung cuốn Giáo Lý Công
Giáo 1992.