LỜI CHÚA LÀ NỀN TẢNG VÀ LINH HỒN CỦA VIỆC DẠY GIÁO LÝ
Lm. Phêrô Nguyễn
Văn Hiền
Trong suốt hai mươi thế kỷ qua, Giáo hội không
ngừng thay đổi cách thức dạy giáo lý để đáp ứng nhu cầu khao khát và tìm kiếm
Thiên Chúa của con người trong từng thời đại. Qua đó, Giáo hội ngày càng thấy
rõ hơn căn tính của việc dạy giáo lý không đơn thuần là trình bày một giáo thuyết,
nhưng là thông truyền Mạc Khải của Thiên Chúa trong Đức Kitô và nâng đỡ sự đáp
trả đức tin của con người.
Trong hành trình này, Công đồng Vatican II - với Hiến chế Dei
Verbum - đã thực hiện một bước ngoặt quyết định trong truyền thống dạy
giáo lý của Giáo hội, khi “coi Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền như là quy luật
tối thượng của đức tin” (21). Vì thế, “lối vào Thánh Kinh cần phải được mở rộng
cho các tín hữu” (22) và những người phục vụ Lời Chúa như giáo lý viên phải gắn
bó với Thánh Kinh, nhờ chuyên cần đọc Sách Thánh và học hỏi kỹ càng để không “hời
hợt rao giảng Lời Chúa ngoài miệng bởi đã không lắng nghe
Lời đó trong lòng” (25). Công đồng còn chỉ thị cho các giám
mục “soạn một bản Hướng Dẫn về việc dạy giáo lý cho dân Kitô giáo, trong đó đề
cập tới các nguyên tắc căn bản của việc dạy giáo lý, cách điều hành và việc
biên soạn các sách liên hệ”[1].
Để thực hiện các chỉ dẫn của Công đồng và đương đầu với những
thách đố mới đặt ra cho các Kitô hữu trong thời đại hiện nay, các Tông huấn
liên quan đến Lời Chúa và việc dạy giáo lý đã được ban hành như Tông huấn Evangelii
Nuntiandi (1975) của ĐGH Phaolô VI, Catechesi Tradendae (1979)
của ĐGH Gioan Phaolô II, Verbum Domini (2010) của ĐGH
Bênêđictô XVI, và Evangelii Gaudium (2013) của ĐGH Phanxicô.
Song hành và xen kẽ với các Tông huấn, còn có các bản Hướng dẫn về việc dạy
giáo lý như các bản Hướng dẫn chung về dạy Giáo lý - Directoire Catéchétique
Général (1971) và Hướng dẫn Tổng quát việc dạy Giáo lý -
Directoire Général pour La Catéchèse (1997) của Bộ Giáo
sĩ, và bản Hướng dẫn dành cho việc dạy Giáo lý - Directoire pour la
Catéchèse (2020) của Hội đồng Tòa thánh Cổ võ Tân Phúc Âm hóa.
Qua những tài liệu trên, chúng ta thấy được nỗ lực của Giáo
hội đặt Lời Chúa làm “tâm điểm của mọi hoạt động trong Giáo hội” (VD
1) và là nguồn mạch của công cuộc Phúc Âm hóa. Là một trong các hoạt động của
Giáo hội và là giai đoạn chính yếu trong tiến trình Phúc Âm hóa, Lời Chúa phải
là nền tảng và linh hồn của việc dạy giáo lý. Với nhan đề này, người viết chủ yếu
dựa vào Tông huấn Verbum Domini (2010) của ĐGH Bênêđictô XVI
và bản Hướng dẫn dành cho việc Dạy giáo lý (2020) của Hội đồng
Tòa thánh Cổ võ Tân Phúc Âm hóa để tìm hiểu ý nghĩa cốt yếu của Lời Chúa, tầm
quan trọng của Lời Chúa trong việc dạy giáo lý và cách thức làm cho Lời Chúa thực
sự là trọng tâm của việc dạy giáo lý.
Trước khi đi vào nội dung chính, thiết tưởng chúng ta cần
xác định ý nghĩa cốt yếu của Lời Chúa. Trong Tông huấn Verbum
Domini (2010), ĐGH Bênêđictô XVI, cùng với các nghị phụ Thượng Hội đồng
Giám mục lần thứ XII (2008), “muốn nói với tất cả các tín hữu bằng chính những
lời của Thánh Gioan trong Thư thứ nhất của ngài: ‘Chúng tôi loan báo cho anh em
sự sống đời đời, là sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho
chúng tôi - chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả
anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi
thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người’ (1Ga 1,2-3).
Thánh Tông đồ dùng các động từ nghe, thấy, đụng chạm và chiêm ngưỡng (x.
1Ga 1,1) Lời Sự Sống, vì chính Sự Sống được tỏ bày trong Đức Kitô’’ (VD 2). ĐGH
Bênêđictô đã dành chương thứ nhất trong toàn bộ ba chương của Tông huấn để nói
về Lời Chúa, trước khi nói đến Lời Chúa trong Giáo hội và Lời Chúa cho thế giới.
Trong phần này, Lời Chúa được trình bày như trung gian của cuộc đối thoại giữa
Thiên Chúa và con người: Thiên Chúa lên tiếng và con người đáp lại với tất cả tự
do, để Ngài có thể đưa họ vào trong Giao ước mà do lòng nhân hậu đã thương ban
cho họ. Cách thức Tông huấn trình bày về Lời Chúa giúp chúng ta không những hiểu
ý nghĩa căn bản của Lời Chúa, mà còn giúp chúng ta định hướng cho việc dạy giáo
lý, cả trên bình diện nội dung cũng như hình thức trình bày.
Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta như một Mầu nhiệm tình
yêu vô tận, trong đó Chúa Cha từ thuở đời đời diễn đạt Lời của Ngài trong Chúa
Thánh Thần. Bởi thế, Ngôi Lời, Đấng từ lúc khởi đầu vẫn hướng về Thiên Chúa và
là Thiên Chúa, đã mạc khải chính Thiên Chúa cho chúng ta trong tương quan trao
đổi tình yêu giữa các Ngôi Vị Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta dự phần vào tương
quan tình yêu đó. Phần chúng ta, một khi được dựng nên theo hình ảnh của Thiên
Chúa, chúng ta chỉ có thể hiểu được chính mình khi biết đón nhận Ngôi Lời và
tác động của Chúa Thánh Thần, vì nhờ ánh sáng của Mạc Khải do Ngôi Lời Thiên
Chúa thực hiện mà bí ẩn trong thân phận con người được sáng tỏ trọn vẹn (x. VD
6).
Thiên Chúa tỏ mình ra bằng nhiều cách thức khác nhau. Trước
hết, Ngài tỏ mình bằng cách lên tiếng để sáng tạo: “Ngài đã nói và
mọi sự liền có, Ngài truyền và mọi sự hiện hữu” (Tv 33,6.9) và để cứu độ:
“Ta đã thấy, Ta đã thấy lầm than của dân Ta ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng kêu của
họ … Phải, ta biết những lo âu của họ. Ta xuống để giải thoát họ khỏi tay người
Ai Cập và đưa họ từ miền đất này tiến về một miền đất xanh tươi và rộng lớn”
(Xh 3,7-8), rồi tiếng của Lời sáng tạo và cứu độ được ghi lại trong
Kinh Thánh như một chứng từ: “Ông Môsê từ núi Sinai trở xuống, tay cầm
hai bia đá ghi chứng từ, những tấm bia được viết hai mặt. Những tấm bia đó là
công trình của Thiên Chúa, chữ viết là bút tích của Thiên Chúa” (Xh 32, 15-16).
Kế đến, Ngài tỏ mình qua các trung gian: “Thuở xưa, nhiều
lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt
1,1). Cuối cùng, Ngài tỏ hiện qua chính Con Một là Đức Giêsu Kitô:
“Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,2).
Như thế, “Lời không chỉ nghe được, không chỉ có một tiếng nói, nhưng giờ đây, Lời
có một diện mạo, để nhờ đó mà chúng ta có thể nhìn thấy” (VD 12).
Theo các nghị phụ của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XII
(2008), “Đức Giêsu Kitô là dấu ấn ‘Alpha và Omera’ (Kh 1,8) của cuộc đối thoại
giữa Thiên Chúa và mọi loài thụ tạo, được kéo dài trong thời gian và được chứng
thực trong Kinh Thánh. Chính dưới ánh sáng của dấu ấn cuối cùng ấy mà những lời
của Môsê và các Ngôn Sứ đạt được “ý nghĩa trọn vẹn”, như chính Chúa Kitô đã
nói, trong một buổi chiều mùa xuân, khi Người đi từ Giêrusalem đến làng Emmaus,
đối thoại với Cléophas và bạn ông, và Người giải thích cho họ “những gì nói về
Người trong toàn thể Kinh Thánh” (Lc 24,27)[2].
Được Chúa tuyển chọn để tiếp nối sứ vụ của Người, các Tông đồ
đã truyền lại cho chúng ta chân lý cứu độ mà các ngài nhận lãnh từ miệng, khi
chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc qua lời giảng dạy, gương
lành và các định chế hoặc qua các bản văn được các ngài và những người phụ tá
viết lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Truyền thống bắt nguồn từ các
Tông đồ là một thực tại năng động và phức tạp, nhờ đó Giáo hội dưới sự trợ giúp
của Chúa Thánh Thần, hiểu Lời Chúa thấu đáo hơn và truyền đạt lại cho mọi thế hệ
tất cả những gì đã được mạc khải trong Chúa Kitô (x. VD 17). Giáo hội xác tín rằng
Thiên Chúa, Đấng đã nói trong quá khứ, hôm nay vẫn tiếp tục truyền thông Lời của
Người trong Truyền Thống sống động của Giáo hội và trong Kinh Thánh. Quả thế, Lời
Chúa ban cho ta trong Kinh Thánh như lời chứng được Thiên Chúa soi sáng nhằm mạc
khải, cùng với Truyền Thống sống động của Giáo hội, làm nên quy luật tối cao của
đức tin (x. VD 18).
Thiên Chúa lên tiếng đồng thời ban cho con người khả năng lắng
nghe và đáp lại lời Ngài nói, để đi vào cuộc đối thoại tình yêu với Ngài. Chỉ
khi mở ra cho cuộc đối thoại này, con người – vốn được tạo thành và sống bởi Lời
– mới có thể hiểu chính mình và tìm được câu trả lời cho những vấn nạn sâu xa
trong tâm hồn (VD 22). Lời Chúa không đối nghịch cũng không bóp nghẹt những
khát vọng chân chính của chúng ta, trái lại, soi sáng, thanh tẩy và đưa các
khát vọng đó đến chỗ hoàn tất (VD 23).
Lời Chúa không chỉ đưa chúng ta vào một cuộc đối thoại với
Thiên Chúa, mà còn dạy chúng ta biết cách thưa chuyện với Ngài. Thật vậy, chúng
ta có thể dùng chính các bản văn của Sách Thánh, đặc biệt là các Thánh vịnh, mà
thưa chuyện với Thiên Chúa, vì các bản văn này diễn tả cách thức con người có
thể theo mà ngỏ lời với Thiên Chúa dưới dạng một lời chuyển cầu (x. Xh
33,12-16), một bài ca diễn tả niềm vui chiến thắng (x. Xh 15) hay một lời than
vãn về sứ mạng phải chu toàn (x. Gr 20,7-18). Theo cách đó, lời con người thưa
với Thiên Chúa lại trở thành chính Lời Thiên Chúa, và như thế củng cố đặc tính
đối thoại của toàn thể Mạc Khải Kitô giáo. Nhìn trong viễn tượng này, toàn thể
cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói
và đang nghe, đang mời gọi và hướng dẫn đời ta (x. VD 24).
Cách đáp trả của riêng con người với vị Thiên Chúa đang lên
tiếng là đức tin. Tin ở đây được hiểu là mở rộng lòng đón nhận hoạt động của
Chúa Thánh Thần, Đấng giúp họ hiểu Lời Chúa trong Sách Thánh, nhờ đó họ gặp gỡ
Chúa Kitô và ký thác trọn đời cho Người (x. VD 25). Tội lỗi, trong cả Cựu Ước lẫn
Tân Ước, được diễn tả như là sự từ khước nghe Lời, là bẻ gẫy
Giao ước và do đó là đóng cửa với Thiên Chúa, Đấng vẫn mời gọi ta hiệp
thông với Ngài. Vì thế, điều quan trọng là các tín hữu phải được dạy cho biết cội
rễ của tội chính là từ khước nghe Lời Chúa, là chối bỏ nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời
Thiên Chúa, ơn tha thứ mang lại ơn cứu độ (x. VD 26).
Tông huấn mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria, Đấng
đã xin vâng đối với Lời Giao ước, lắng nghe Lời Chúa trong đức tin và sống hòa
hợp với ý muốn Thiên Chúa (x. VD 27). Trong Kinh Magnificat, Đức
Maria ngợi khen Thiên Chúa bằng chính lời của Ngài. Vì thế, chúng ta thấy ở
trong Lời Chúa, Đức Maria tỏ ra thật sự ở trong nhà ngài, ngài thoải mái đi ra đi
vào. Ngài nói năng và suy nghĩ nhờ Lời Chúa; Lời Chúa trở thành lời của ngài và
lời của ngài phát sinh từ Lời Chúa. Hơn nữa, chúng ta thấy tư tưởng của ngài
hoà điệu với tư tưởng của Thiên Chúa, ý muốn của ngài hệ tại điều Thiên Chúa muốn.
Vì được Lời Thiên Chúa thấm nhuần sâu xa, ngài có thể trở thành Mẹ của Lời Nhập
Thể. Khi chiêm ngưỡng nơi Đức Maria một cuộc sống hoàn toàn được uốn nắn bởi Lời,
chúng ta khám phá ra rằng mình cũng được mời gọi bước vào Mầu nhiệm đức tin, nhờ
đó Chúa Kitô đến cư ngụ trong đời sống chúng ta. Theo một nghĩa nào đó, chúng
ta đang cưu mang và sinh hạ Lời Chúa (x. VD 28).
Từ cách thức Tông huấn trình bày về Lời Chúa, chúng ta có thể
ghi nhận vài đặc điểm để định hướng cho việc dạy giáo lý:
a/ Lời Chúa được trình bày ngay trong phần đầu của Tông huấn,
trước phần nói về Lời Chúa trong Giáo hội và Lời Chúa cho thế giới. Điều này
cho thấy Lời Chúa gắn liền với bản tính, ơn gọi và sứ vụ của Giáo hội. Trên
bình diện mầu nhiệm, Giáo hội liên kết mật thiết với Đức Kitô, ví như thân thể
với đầu, cành nho với thân nho. Vì thế, Giáo hội phải luôn tìm kiếm và thực thi
ý muốn của Đức Kitô được bảo tồn trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, để múc lấy từ
đó ánh sáng và sức mạnh cho sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình. Chính Đức Kitô
đang sống trong Giáo hội và nhờ Giáo hội mà dạy dỗ, thánh hóa và cai quản. Bởi
thế, Giáo hội không được chạy theo cách suy nghĩ và hành động kiểu thế gian,
nhưng học với Đức Maria để biết lắng nghe Lời Chúa trong sự vâng phục đức tin và
sống hòa hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
b/ Lời Chúa được diễn tả bằng nhiều cách thức (lời Hằng Sống,
lời Sáng Tạo, lời Cứu Độ, lời Nhập Thể) và nhiều hình thức khác nhau (được nói
lên, được viết ra hay tỏ hiện). Điều này cho thấy loan báo Lời Chúa không đơn
thuần là phổ biến Kinh Thánh, mà là công bố những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã
làm trong lịch sử cứu độ, đặc biệt là biến cố Ngài đã thương ban Con Một của
Ngài cho chúng ta và bằng lòng để cho Người chịu chết vì phần rỗi của chúng ta.
Trong Sứ điệp Thượng Hội đồng Giám mục gửi Dân Chúa năm 2008, các nghị phụ viết:
“Kinh Thánh là ‘chứng từ’ của Lời Chúa dưới hình thức chữ viết, là văn kiện tưởng
niệm theo quy luật, lịch sử và văn chương, làm chứng biến cố mạc khải sáng tạo
và cứu độ. Vì thế, Lời Chúa đi trước và đi xa hơn Kinh Thánh, Kinh Thánh cũng
được Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo
dục để trở nên công chính (x. 2Tm 3,16). Chính vì thế, đức tin của chúng ta
không chỉ có trọng tâm là cuốn Kinh Thánh mà thôi, nhưng là lịch sử cứu độ và một
nhân vật là Chúa Giêsu Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và là lịch sử.
Vì thế, người đọc Kinh Thánh luôn luôn cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Linh,
Đấng dẫn đến chân lý toàn vẹn (Ga 16,13). Đây chính là đại Truyền thống, là sự
hiện diện hữu hiệu của Thánh Thần chân lý trong Giáo hội, là người giữ gìn Kinh
Thánh, được Huấn quyền Giáo hội giải thích. Với Truyền thống, ta đi đến sự hiểu
biết, giải thích, thông truyền và làm chứng về Lời Chúa. Chính Thánh Phaolô,
khi công bố kinh Tin Kính đầu tiên của Kitô giáo, đã xác nhận mình ‘truyền lại’
điều đã nhận được từ Truyền thống (1Cr 15,3-5)”[3].
c/ Lời Chúa được trình bày trong khung cảnh của cuộc đối thoại
giữa Thiên Chúa và con người, cuộc đối thoại bắt nguồn từ ý định cứu độ của
Ngài. Trong cuộc đối thoại này, Thiên Chúa tỏ cho con người biết Ngài là tình
yêu và tình yêu ấy được biểu lộ viên mãn nơi Đức Giêsu Kitô. Tình yêu này bao
hàm sự giải thoát con người khỏi sự dữ, tội lỗi và cái chết, đồng thời cho họ
được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa nhờ cái chết và sự sống lại của Đức
Giêsu Kitô. Như thế, loan báo Lời Chúa là rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu
Kitô như lời chứng của Thánh Gioan trong Thư thứ nhất của ngài: “Điều chúng tôi
đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng
được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với
Đức Giêsu Kitô, Con của Người” (1Ga 1,1-3).
Trong cuộc đối thoại cứu độ (colloquium salutis),
chúng ta thấy Thiên Chúa là người khởi xướng và bước đến gần con người để lắng
nghe, ngỏ lời và mời gọi mọi người thông phần vào sự sống của Ngài. Thiên Chúa
không phán từ trên cao hay từ xa, cũng không tìm cách thuyết phục hay áp đặt,
nhưng nói với con người trong những hoàn cảnh cụ thể của họ, bằng tiếng nói của
trái tim và bằng thứ ngôn ngữ của họ. Ngài không chỉ lên tiếng mà còn tỏ hiện
trong Đức Giêsu Kitô, để con người có thể gặp gỡ và đi vào sự hiệp thông với
Ngài. Thiên Chúa không chỉ nói bằng lời mà bằng cả việc làm, bằng cuộc sống và
cả cái chết của mình. Ngài chỉ muốn điều tốt cho người nghe, chứ không mong điều
gì ích lợi cho mình.
Để loan báo Tin Mừng, Giáo hội không có một con đường nào
khác, ngoài đi lại con đường đối thoại của Thiên Chúa đồng thời đối thoại với
tâm tình, thái độ và cách thức của Ngài. Hiến chế Gaudium et Spes khẳng
định: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của
người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng
của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không
gieo âm hưởng trong lòng họ” (số 1). Muốn thế, trước hết Giáo hội phải bước đến
và lắng nghe tâm tư cũng như khát vọng của con người, để thấu hiểu những vấn nạn
họ gặp phải trong cuộc sống, từ đó mới trình bày Lời Chúa và phải “trình bày
cho thấy Lời Chúa có khả năng đáp lại những vấn đề mà con người phải đương đầu
trong cuộc sống hằng ngày, và cố gắng hết sức để Lời Chúa xuất hiện như một sự
nới rộng các giá trị và thỏa mãn các khát vọng của con người” (VD 23). Trong
Tông huấn Evangelii Gaudium, ĐGH Phanxicô nhắn nhủ người rao giảng
Tin Mừng phải trình bày tình yêu cứu độ của Thiên Chúa trước các bổn phận luân
lý và tôn giáo, phải thu hút sự tự do chứ không áp đặt chân lý, và phải rao giảng
với niềm vui, sự khích lệ, sức sống, và sự quân bình để không giản lược việc
loan báo vào một ít giáo thuyết đôi khi mang tính triết học hơn là tính phúc
âm. Điều này đòi hỏi người rao giảng Tin Mừng một vài thái độ để làm cho việc
đón nhận lời loan báo được dễ dàng hơn: gần gũi, cởi mở để đối thoại, kiên nhẫn,
chào đón thân mật mà không lên án (x. EG 165).
Dựa vào Tông huấn Verbum Domini, chúng ta đã hiểu
ý nghĩa căn bản của Lời Chúa cũng như vị trí trung tâm của Lời Chúa trong việc
rao giảng Tin Mừng. Là một giai đoạn được coi là ưu tuyển trong tiến trình rao
giảng Tin Mừng (x. DpC 56), việc dạy giáo lý tất nhiên phải dựa trên nền tảng của
Lời Chúa và được gợi hứng từ Lời Chúa. Nói cách khác, Lời Chúa không những là
tâm điểm mà còn là nền tảng và linh hồn của việc dạy giáo lý nữa. Thật vậy, Lời
Chúa phải là nguồn mạch và nội dung chính, là nền móng vững chắc để xây dựng và
phát triển việc giáo dục đức tin. Hơn nữa, Lời Chúa còn gợi hứng và làm cho việc
dạy giáo lý trở nên sống động. Nhìn lại lịch sử của việc dạy giáo lý, chúng ta
có thể thấy trong suốt mười lăm thế kỷ đầu, Lời Chúa thực sự là nền tảng và
linh hồn của việc dạy giáo lý, nhưng từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XX, vai trò
của Lời Chúa như bị lu mờ đi trước giáo thuyết, và Lời Chúa chỉ lấy lại được vị
trí trung tâm của việc dạy giáo lý nhờ cuộc canh tân của Công đồng Vatican II
(1962-1965).
Trong những thế kỷ đầu cũng như trong suốt thời Trung Cổ, lời
rao giảng Tin Mừng đầu tiên là trung tâm của việc dạy giáo lý và dưới ánh sáng
của lời rao giảng này, giảng viên đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô để giúp người thụ
giáo gặp gỡ và hiệp thông với Người. Quả thế, sau khi nhận được lệnh truyền
giáo và được tràn đầy Thánh Thần, các Tông đồ bắt đầu đi rao giảng khắp nơi bằng
cách kể lại cho mọi người các lời Chúa nói và những việc Chúa làm, cái chết và
sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, để mời gọi người ta tin tưởng vào Người và đón
nhận phép rửa nhân danh Người. Để lãnh nhận phép Rửa, ứng viên phải học cho biết
các mầu nhiệm trong đạo, có đời sống đạo hạnh và được coi là xứng đáng gia nhập
cộng đoàn. Chính trong cộng đoàn, họ lắng nghe các Tông đồ rao giảng Lời Chúa,
và dưới ánh sáng của Lời Chúa, đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô để được gặp gỡ Ngài
cách trọn vẹn trong phụng vụ và cầu nguyện, đồng thời gặp gỡ và phục vụ anh chị
em (x. Cv 2,42); kết cục cuộc sống tốt lành của họ trở thành bài học sống động
về Lời Chúa, thành sách Tin Mừng sống động[4].
Khởi đầu, cộng đoàn các tín hữu chỉ phát triển trong phạm vi
Do Thái giáo với trung tâm là Đền thờ Giêrusalem. Sau đó, cộng đoàn tách khỏi
Do Thái giáo và Tin Mừng được rao giảng khắp nơi, vươn đến tận Hy Lạp, nơi đã
có truyền thống triết học lâu đời. Trong bối cảnh này, nhiều điểm giáo lý cần
được làm sáng tỏ, nhiều chân lý mạc khải bị lạc giáo chối từ cần được xác định
lại bằng phán quyết của các Công đồng. Nhờ bảy Công đồng đầu tiên, giáo lý căn
bản của đức tin về mầu nhiệm Ba Ngôi và về Đức Kitô được xác định trong 12 tín
điều chứa đựng trong 2 tín biểu quen gọi là “Kinh Tin Kính Các Tông Đồ” và
“Kinh Tin Kính Nicea-Constantinopoli”. Từ bấy giờ, cộng đoàn có thêm cơ sở để
quy chiếu khi rao giảng Tin Mừng hay dạy giáo lý.
Thời kỳ này còn nổi bật với việc dạy giáo lý khai tâm, một
chương trình huấn luyện dự tòng theo bốn giai đoạn: thời tiền dự tòng, thời dự
tòng, thời thanh luyện và soi sáng, và thời nhiệm huấn, phối hợp với ba cử
hành: tiếp nhận, tuyển chọn, các bí tích khai tâm. Chương trình này làm nổi bật
lên tính chất tiệm tiến và toàn diện của lộ trình huấn luyện dự tòng: tiệm
tiến vì là một tiến trình với các giai đoạn rõ ràng xuất phát từ Lời
rao giảng Tin Mừng đầu tiên (kerygma), được đào sâu bởi việc dạy
giáo lý, được thực hiện bởi nhiệm huấn (mystagogue) và dẫn tới
truyền giáo; toàn diện bởi liên hệ đến các nghi thức, những biểu
tượng và những dấu chỉ, đặc biệt về Thánh Kinh và Phụng vụ, quy chiếu thường
xuyên vào cộng đoàn Kitô hữu (x. DGC 88-91).
Do cuộc ly khai của anh em Tin Lành (1520) và sự ra đời của
các sách giáo lý Tin Lành cũng như Công Giáo, chẳng hạn sách giáo lý nhỏ cho
tín hữu và sách giáo lý lớn cho các mục sư do Luther soạn (1525-1529), sách
giáo lý của Thánh Phêrô Canisiô (1521-97), của Thánh Bellarminô (1542-1621), của
ĐGH Piô V (1566-72), của Thánh Carôlô Bôrrômêô (1538-84) v.v…, việc dạy “giáo
lý” (catéchèse) bị giản lược vào việc dạy “thủ bản giáo
lý” (catéchisme) chủ yếu nhằm cung cấp kiến thức đức tin để
người Kitô hữu có thể giữ vững đức tin và bảo vệ đức tin Công giáo.
Trong Tự sắc chấp thuận và công bố bản “Toát yếu Giáo lý của
Hội thánh Công giáo” ban hành ngày 28/6/2005, ĐGH Bênêđictô XVI thừa nhận sự cần
thiết và lợi ích của các sách giáo lý, đặc biệt các sách giáo lý được viết dưới
hình thức Hỏi-Thưa: “Sách Giáo lý ấy [GLHTCG 1992] nhắm trao vào tay các vị
Giám mục như bản quy chiếu chắc chắn và đích thực để giảng dạy giáo lý Công
giáo và đặc biệt để soạn thảo các sách giáo lý địa phương… Bản Toát yếu chứa
đựng cách ngắn gọn mọi yếu tố căn bản và nền tảng của đức tin Hội thánh, tạo
thành một thứ thủ bản “cầm tay – Vademecum”… cho phép mọi người, dù
tin hay không, có thể có được một cái nhìn toàn diện về đức tin Công giáo... Nhờ
tính chất ngắn gọn, trong sáng và đầy đủ, bản Toát yếu cũng nhắm
đến mọi người, đang sống trong một thế giới phân tán và có quá nhiều sứ điệp,
khao khát biết được con Đường Sự sống, Chân lý, đã được Thiên Chúa trao phó cho
Hội thánh của Con mình… Khi đọc bản Toát yếu có thẩm quyền
này… mỗi người có thể nhận ra và đón nhận ngày một hơn vẻ đẹp, sự thống nhất và
tính hiện thực bất tận của món quà vô giá mà Thiên Chúa đã ban tặng cho nhân loại:
đó là Con Duy Nhất của Ngài, Đức Giêsu Kitô, Đấng là “Đường, là Sự thật và là Sự
sống” (Ga 14,6).
Như thế, Sách giáo lý được soạn thảo nhằm trao vào tay các mục
tử cũng như các tín hữu như một bản quy chiếu để dạy
giáo lý hay soạn thảo các sách giáo lý địa phương. Thế nhưng, trong thực tế, nó
đã được dùng như một giáo trình để dạy giáo lý; hệ quả là “đức tin Kitô giáo vốn
xuất phát từ những gì chúng ta nghe (Rm 17) và những gì chúng ta nghe – trước hết
và trên hết – là câu chuyện liên quan đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã từng sống
trong lịch sử và được kể lại như một Tin Mừng cho mọi người mọi thời”[5], trở thành những khái niệm trừu tượng được
diễn dịch và cô đọng trong những công thức khô khan, chủ yếu nhằm phục vụ cho
việc huấn luyện kiến thức đức tin. Phải chăng vì muốn bảo vệ đức tin cho các
tín hữu mà việc dạy giáo lý tập chú vào việc phục vụ cho giáo thuyết thay vì phục
vụ cho Lời Chúa?
Từ triều đại Giáo hoàng Lêô XIII (1878-1903), Giáo hội ngày
càng ý thức mạnh mẽ hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa và việc nghiên cứu Kinh
Thánh trong đời sống của Giáo hội, mà cao điểm là Công đồng Vatican II, đặc biệt
là việc ban hành Hiến chế Dei Verbum về Mạc Khải của Thiên
Chúa (x. VD 3). Có thể nói Công đồng đã khép lại “thời dạy thủ bản giáo lý” và
mở ra “thời dạy giáo lý” đúng nghĩa, trong đó dạy giáo lý thiết yếu là một
trong các hoạt động của Giáo hội nhằm phục vụ Lời Chúa và giáo dục đức tin cho
mọi người, và Lời Chúa thực sự là nền tảng và linh hồn của việc dạy giáo lý.
Đối với ĐGH Gioan Phaolô II, dạy giáo lý là công bố và giải
thích cho người ta những gì các Tông đồ đã nghe, đã thấy tận mắt, điều các ông
đã chiêm ngưỡng và đụng chạm đến bằng tay, về Lời Hằng Sống, để họ được sống nhờ
Danh Người (x. CT 1). Chính ĐGH Bênêđictô XVI, trong Tông huấn Verbum
Domini số 74, đã viết như sau: “Cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Đức
Giêsu trên đường Emmaus được tác giả Tin Mừng Luca mô tả (x. Lc 24, 13-35),
theo một nghĩa nào đó, biểu thị khuôn mẫu của việc dạy giáo lý tập trung vào việc
‘giải thích Kinh Thánh’ mà chỉ duy Chúa Kitô mới có thể ban cho (x.
Lc 24, 27-28), khi chỉ cho thấy Kinh Thánh được hoàn tất nơi bản thân Người…
Trong quyển “Hướng dẫn Tổng quát về việc Dạy Giáo Lý” [của Bộ Giáo Sĩ, ban hành
năm 1997], chúng ta gặp được những hướng dẫn quý báu để Kinh Thánh là linh
hồn của việc giảng dạy giáo lý, nên tôi sẵn lòng khuyến khích
tham khảo bản văn này. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đặc biệt rằng khoa giáo lý ‘phải
thấm nhuần và nắm vững tư tưởng, tinh thần và các thái độ Kinh Thánh và Tin Mừng
nhờ việc chuyên cần tiếp xúc với chính các bản văn; điều này cũng muốn nhắc nhớ
rằng khoa giáo lý sẽ càng phong phú và hiệu quả hơn, nếu như đọc các bản
văn với khối óc và con tim của Giáo hội’ và được gợi hứng từ
suy tư và đời sống suốt hai ngàn năm qua của Giáo hội. Như vậy, chúng ta phải
khuyến khích một sự hiểu biết về các nhân vật Kinh Thánh, những biến cố và những
diễn ngữ căn bản của bản văn thánh; muốn như vậy, cũng có thể là bổ ích nếu hiểu
biết và học thuộc lòng một vài đoạn Kinh Thánh – đặc biệt những
đoạn nói về các mầu nhiệm Kitô giáo.”
Đối với ĐGH Phanxicô, dạy giáo lý cốt để phục vụ cho sự tăng
trưởng trong đức tin hay lớn lên trong Đức Kitô. Việc này không đơn thuần là việc
huấn luyện về tín lý, nhưng là giúp người ta đáp lại ơn gọi làm con bằng cách lớn
lên trong tình yêu nhờ thường xuyên làm điều vui lòng Thiên Chúa và làm cho
Ngài được vinh danh (x. EG 160-62). Trong việc dạy giáo lý, cần lưu ý đến: a/
vai trò căn bản của lời loan báo Tin Mừng đầu tiên (kerygma).
Lời này phải được lặp đi lặp dưới những dạng thức khác nhau trong suốt tiến
trình dạy giáo lý, ở mọi cấp độ và thời điểm, vì không có gì chắc chắn hơn, sâu
sắc hơn, an toàn hơn, thực chất hơn và đầy khôn ngoan hơn lời loan báo cơ bản
này (163-165); b/ đặc tính khai tâm nhiệm hiệp (l’initiation
mystagogique) của việc dạy giáo lý, chủ yếu giúp người học hòa nhập
vào đời sống cộng đoàn (166); c/ “con đường thẩm mỹ” (via
pulchritudinis) nhằm khôi phục lại lòng ngưỡng mộ vẻ đẹp để có thể chạm
đến quả tim con người và để sáng tỏa trong ấy chân lý và sự tốt lành của Đấng
Phục Sinh (167); d/ về luân lý, mời gọi người học lớn lên trong sự
trung thành với việc sống theo Tin Mừng, luôn nhắc đến những điều tốt lành
và dưới ánh sáng của những điều tốt lành giúp người ta hiểu tại sao chúng ta tố
cáo những điều xấu, trở thành sứ giả hân hoan của những đề nghị từ trên cao hay
người canh giữ sự tốt lành thay vì trở thành những chuyên viên báo họa (168);
e/ đồng hành với người học bằng sự hiện diện gần gũi nhờ biết
lắng nghe để có được những cử chỉ và lời nói có khả năng khơi dậy ước muốn đáp
lại trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, cũng như cái nhìn tôn trọng và đầy trắc ẩn
có khả năng đánh thức nơi họ sự tin tưởng, mở lòng ra, sẵn sàng để lớn lên và
ra đi rao giảng Tin Mừng (169-173).
Qua những chỉ dẫn trên, các vị Giáo hoàng một lần nữa xác định
lại tầm quan trọng hàng đầu và vị trí trung tâm của Lời Chúa trong việc dạy
giáo lý. Theo đó, Lời Chúa phải là nền tảng và linh hồn của việc dạy giáo lý.
Thật vậy, việc dạy giáo lý được gợi hứng bởi truyền thống huấn luyện dự tòng của
Giáo hội hiện nay không đơn thuần là việc dạy giáo thuyết, nhưng là “một hành
trình sư phạm được thực hiện ngay trong cộng đoàn, nhằm dẫn người tín hữu đến gặp
gỡ Đức Chúa Giêsu Kitô nhờ Lời Chúa, hoạt động phụng vụ và bác ái, gặp gỡ với mọi
chiều kích của con người để có thể lớn lên trong tinh thần đức tin và trở thành
chứng nhân của sự sống mới trong thế gian”[6].
Ngoài chỉ dẫn của các vị Giáo hoàng, chúng ta còn có một số
văn kiện của Huấn quyền phát hành bởi Tòa Thánh hay chỉ thị của các Hội đồng
Giám mục, chẳng hạn bản Directoire pour la Catéchèse 2020 của
Hội đồng Tòa thánh Cổ võ Tân Phúc Âm hóa hay bản Hướng dẫn Tổng quát việc
Dạy giáo lý 2017 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Theo Hội đồng Tòa thánh Cổ võ Tân Phúc Âm hóa, dạy giáo lý
là hoạt động của Giáo hội phát sinh từ mệnh lệnh truyền giáo của Đức Giêsu
Kitô, nhằm làm cho lời rao giảng Tin Mừng đầu tiên vang vọng trong tâm hồn con
người, nhờ đó cuộc sống của họ được biến đổi. Việc dạy giáo lý, xét như một thực
tại năng động và phức tạp nhằm phục vụ Lời Chúa, bao gồm một chuỗi công việc
như đồng hành, giáo dục và huấn luyện trong đức tin và cho đức tin, dẫn vào việc
cử hành mầu nhiệm, soi sáng và giải thích cuộc đời con người và lịch sử (x. DpC
55-56).
Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong Hướng dẫn Tổng
quát việc Dạy giáo lý 2017, khẳng định: “việc dạy giáo lý – xét
như là công cuộc giáo dục đức tin – phải góp phần vào việc đào tạo những Kitô hữu
sống trọn vẹn mầu nhiệm hiệp thông với ba chiều kích: với Thiên Chúa, với Giáo
hội và với mọi người (46)… Muốn thế, việc dạy giáo lý phải đặt trên nền tảng Lời
Chúa và Lời Chúa phải là linh hồn của việc dạy giáo lý. Việc dạy giáo lý phải
giúp cho học viên tiếp cận với bản văn Kinh Thánh, hiểu và đón nhận sứ điệp Lời
Chúa, biết diễn tả niềm xác tín của mình và dấn thân thực hiện theo Lời Chúa.
[Giáo lý viên còn phải] hướng dẫn họ cầu nguyện bằng cách thưa chuyện với Chúa
nhờ lắng nghe và đón nhận Lời Chúa” (54). Trước đó, trong Đại hội Giáo lý Toàn
quốc lần thứ IV tại Tổng Giáo phận Huế, từ ngày 18-21/8/2014, 237 tham dự viên
gồm 118 linh mục, 45 tu sĩ, 8 chủng sinh và 64 giáo dân thuộc 26 giáo phận, với
sự hiện diện và đồng hành của 3 vị giám mục, sau khi cầu nguyện, lắng nghe, suy
nghĩ và trao đổi, cũng đã nhất trí như vậy, thậm chí còn nhất trí “đưa việc dạy
giáo lý thoát khỏi khuôn khổ của một ‘lớp’ học” (x. Bản Ghi Nhớ, 2 và 4).
Vấn đề còn lại của chúng ta là: Làm thế nào để Lời Chúa thực
sự là nền tảng và linh hồn của việc dạy giáo lý? Trong khuôn khổ giới hạn của
bài viết này, tôi không thể trình bày cụ thể phải tiếp cận và trình bày Lời
Chúa như thế nào, để người học có thể nghe và đáp lại lời Chúa, nhờ đó, gặp gỡ
và kết hợp mật thiết với Người theo mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý. Vì
thế, tôi tập trung vào một việc thiết yếu cần phải làm để những chỉ dẫn của
Công đồng và của các vị lãnh đạo trong Giáo hội liên quan đến việc dạy giáo lý
trở nên khả thi; đó là phúc âm hóa việc dạy giáo lý. Việc này đòi hỏi:
trước hết, đổi mới lòng nhiệt thành của giáo lý viên, bao gồm cả giáo sĩ, tu sĩ
và giáo dân, đối với Lời Chúa và việc phục vụ Lời Chúa; kế đến, đổi mới phương
pháp dạy giáo lý; cuối cùng, đổi mới ngôn ngữ được dùng để dạy giáo lý.
Ngoài ơn gọi “nên thánh giữa đời” và sứ vụ “kiện toàn trật tự
trần thế theo tinh thần Tin Mừng” của một giáo dân, giáo lý viên còn có một
linh đạo riêng phát xuất từ ơn gọi và sứ vụ tông đồ là “thông truyền Lời Chúa”.
Linh đạo này được biểu hiện trước hết qua thái độ yêu mến và đón nhận Lời Chúa
được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền[7]. Thế nhưng, giáo lý viên phải làm gì và
làm thế nào để có được lòng yêu mến Lời Chúa và say mê phục vụ Lời Chúa?
Dựa vào kinh nghiệm của các Tông đồ, đặc biệt là của Thánh
Phêrô, chúng ta có thể nói giáo lý viên cần có kinh nghiệm về quyền năng và sự
linh nghiệm của Lời, mà xưa kia các ngài đã có như khi thấy “gió tắt và biển lặng
như tờ” sau lời Chúa Giêsu truyền “Hãy êm đi, lặng đi!” (Mc 4,39) hoặc như
Thánh Phêrô trước “mẻ cá lạ” sau khi vâng lời Chúa Giêsu “Chèo ra chỗ nước sâu
mà thả lưới bắt cá” (Lc 5,4); hay khi bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với
Chúa sau lời Người bảo: “Cứ đến!” (Mt 14,29); hay khi nghe tiếng gà gáy sau lần
chối thứ ba như Thầy đã báo trước (Ga 18,28), để rồi thâm tín hơn lời đã một lần
tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những
lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Để có được kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu và biến đổi nhờ lời
của Người, giáo lý viên phải mở ra cho Lời Chúa qua việc siêng năng đọc và cầu
nguyện với Lời Chúa (lectio divina). “Phương pháp này bắt đầu bằng
việc đọc (lectio) đoạn Kinh Thánh, gợi lên một câu hỏi về việc
hiểu biết chính xác nội dung đích thực của văn bản: đoạn Kinh Thánh này tự nó
nói lên điều gì thế? Tiếp đến là suy niệm (meditatio), trong
đó câu hỏi là: đoạn Kinh Thánh này nói gì với chúng ta? Và sau đó là cầu nguyện (oratio),
việc làm này giả thiết một câu hỏi khác: chúng ta nói gì với Chúa để đáp lại Lời
Ngài? Và cuối cùng là chiêm niệm (contemplatio), trong đó
chúng ta đón nhận như hồng ân của Chúa chính cái nhìn của Ngài khi nhận xét về
thực tại và chúng ta tự hỏi: Chúa đang yêu cầu chúng ta phải hoán cải tâm trí
và cuộc sống như thế nào?”[8]
Khi mở ra cho Lời Chúa, giáo lý viên cũng mở ra cho Thiên
Chúa. Họ “để cho mình được lôi cuốn vào phạm vi hoạt động của Chúa Cha, Đấng ngỏ
lời; của Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, Đấng chỉ loan báo mọi lời đã nghe được từ
Chúa Cha (Ga 8,26; 12,49); của Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí và sưởi ấm
con tim để giúp hiểu Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và trung thành thực thi Lời
Chúa (Ga 16,12-14) … [và sẵn sàng] tham dự vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn
mọi người nhận biết chân lý và được cứu rỗi (1Tm 2,4); hiệp thông với Đức Kitô,
bằng cách chia sẻ các tâm tình của Ngài (Pl 2,5) và như thánh
Phaolô, sống kinh nghiệm về sự hiện diện thường xuyên và khích lệ của Đức Kitô:
“Đừng sợ... vì Ta ở cùng con” (Cv 18,9-10), bằng cách để Chúa Thánh Thần hướng
dẫn và biến đổi thành chứng nhân can đảm của Đức Kitô và thành người loan báo Lời
Chúa được soi sáng”[9].
Theo Hội đồng Tòa thánh Cổ võ Tân Phúc Âm hóa, việc dạy giáo
lý vừa phải chú trọng đến sứ điệp của Lời Chúa, vừa phải chú trọng đến những
nhu cầu đích thực của kinh nghiệm con người, nghĩa là vừa phải trung thành với
Thiên Chúa, vừa phải trung thành với con người, nhờ đó, tránh được sự tương phản
giữa nội dung và phương pháp. Phương pháp sử dụng phải phản ánh bản chất của sứ
điệp Tin Mừng với những nguồn mạch của nó, đồng thời chú ý đến những hoàn cảnh
cụ thể của con người. Vì tuổi tác và sự phát triển về tri thức, mức độ trưởng
thành về tâm linh và giáo hội cùng nhiều hoàn cảnh của các Kitô hữu khác nhau,
giáo lý viên cần sử dụng nhiều phương pháp dạy giáo lý khác nhau”[10]. Giáo lý
viên cần phân định xem phương pháp nào có khả năng tập chú vào và kết nối tốt
hơn cả thực tại của cuộc sống lẫn sứ điệp của đức tin (x. DpC 194-196).
So với phương pháp giáo khoa (didactique) tập
chú vào việc truyền đạt kiến thức đức tin, các tín điều, các nghi lễ và luân
lý, phương pháp kể chuyện (narratif) có khả năng đáp ứng tốt
hơn yêu cầu trên, vì nó tập chú vào tương giao, vào việc gặp gỡ Đức Giêsu Kitô
là mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo xuất phát
từ những gì chúng ta nghe (Rm 17) mà những gì chúng ta nghe, trước hết và trên
hết, là một câu chuyện liên quan đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống trong lịch sử
và được kể lại như một Tin Mừng cho mọi người, mọi thời. Thật vậy, chân lý Kitô
giáo không nằm trong “khái niệm” hay trong một tập hợp các ý tưởng rõ ràng và
chính xác, tách khỏi cuộc sống thường ngày, nhưng nằm trong các biến cố và đến
với chúng ta qua những biến cố trong lịch sử. Chính vì tính chất lịch sử và
tương giao của đức tin Kitô giáo mà bản văn kể lại những câu chuyện về Thiên
Chúa và với Thiên Chúa tiêu biểu cho việc tiếp cận chân lý bằng phương thức kể
chuyện.
Phương thức kể chuyện ở đây không đơn thuần là sử dụng ngôn
ngữ kể chuyện, mà còn là một hoạt động sư phạm (pédagogie narrative) giúp
người học tiếp cận với Lời Chúa trong Kinh Thánh để bước vào cuộc đối thoại với
Chúa, qua việc nghe Chúa nói nhờ tiếp nhận được sứ điệp của Lời Chúa chứa đựng
trong bản văn Kinh Thánh và nói cho Chúa nghe về chính cuộc sống của mình với cả
“vui mừng và hy vọng” lẫn “ưu sầu và lo lắng”. Nhờ cuộc đối thoại này, người học
sẽ tìm được câu trả lời cho những vấn nạn trong cuộc đời của mình, vì Lời Chúa
có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa trong lòng họ, nếu như họ dám chết đi
như hạt lúa để sinh nhiều bông hạt. Trong tiến trình này, có sự giao thoa giữa
câu chuyện của Chúa với câu chuyện của chứng nhân tức người kể và câu chuyện của
người nghe. Nếu như người nghe bước vào câu chuyện của Đức Giêsu và tiếp nhận
nó như câu chuyện cứu độ cho mình, thì họ sẽ làm cho cuộc đời của mình trở
thành trang sách mới của Tin Mừng, “tin mừng thứ năm”. Thiếu phần kể lại câu
chuyện của Chúa Giêsu để khơi nguồn, việc dạy giáo lý truyền thống dựa trên bốn
trục: kinh Tin Kính, các bí tích, các điều răn và Kinh Lạy Cha, mất đi ý nghĩa
và sức sống của nó, tựa như nguồn suối bị bế tắc khiến dòng sông mau cạn khô vậy.
Như thế, chiều kích tường thuật không phải là một yếu tố giữa những yếu tố khác
của việc dạy giáo lý, nhưng tạo nên nguồn mạch, nền tảng và nơi phát sinh của
nó[11].
Vẫn theo Hội đồng Tòa thánh Cổ võ Tân Phúc Âm hóa, việc
dạy giáo lý là một hoạt động sư phạm được diễn đạt theo những ngôn ngữ khác
nhau của những người tham dự, và đồng thời có một ngôn ngữ riêng: ngôn
ngữ của đức tin. Trong lịch sử, Giáo hội truyền đạt đức tin của mình
qua Sách Thánh (ngôn ngữ thánh kinh), qua các biểu tượng và các nghi lễ
phụng vụ (ngôn ngữ phụng vụ-biểu tượng), qua tác phẩm của các giáo phụ,
các Tín biểu, những công thức của Huấn quyền (ngôn ngữ giáo thuyết), và
qua chứng từ của các thánh và các vị tử đạo (ngôn ngữ huấn luyện). Việc
dạy giáo lý thích nghi cách sáng tạo những ngôn ngữ văn hóa của các dân tộc, nhờ
đó, đức tin được diễn tả cách đặc thù (x. DpC 204-206).
Việc dạy giáo lý quan tâm trước hết đến ngôn ngữ kể
chuyện và tự thuật. Kể chuyện không chỉ như một công cụ ngữ học, nhưng trên
hết như một phương tiện qua đó người ta hiểu mình và thực tại xung quanh, và
cho kinh nghiệm của mình một ý nghĩa. Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh tiếp tục kể
lại câu chuyện cứu độ mà trọng tâm của nó là mầu nhiệm Phục sinh. Câu chuyện ấy
cuốn hút mọi chiều kích của con người: tình cảm, nhận thức, ý chí, đồng thời
làm nổi bật lên chiều kích lịch sử và ý nghĩa hiện sinh của đức tin khi đan xen
một cách phong phú câu chuyện về Đức Giêsu với đức tin của Giáo hội và đời sống
của những người kể cũng những người nghe (207-08).
Kế đến, là ngôn ngữ nghệ thuật và mỹ thuật. Những hình
ảnh nghệ thuật Kitô giáo, khi xác thực, giúp cảm nhận Thiên Chúa đang sống,
hiện diện và hoạt động trong Giáo hội và lịch sử[12]. Các hình ảnh
có thể giúp mọi người có được kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa nhờ chiêm ngắm cái
đẹp. Thực vậy, những hình ảnh này làm cho người chiêm ngắm chúng nhìn chằm chằm
vào một Ai đó vô hình, khi mở lối cho họ bước vào thực tại của thế giới thiêng
liêng và cánh chung. Việc sử dụng hình ảnh trong việc dạy giáo lý giúp lĩnh hội
sự hiểu biết xa xưa của Giáo hội. Nó giúp tín hữu biết và nhớ lại những biến cố
của lịch sử cứu độ cách nhanh lẹ hơn. Âm nhạc làm cho tinh thần
con người thấm nhuần khát vọng đối với cái vô hạn. Các bài hát phụng vụ cũng có
được sự phong phú về đạo lý được truyền đạt bằng âm nhạc, nên dễ đi vào tâm trí
hơn và để lại trong tâm hồn mọi người một dấu ấn sâu đậm. Những hình thức trình
bày nghệ thuật khác nhau như văn chương, kịch nghệ, phim ảnh, v.v...,
làm cho con người mở ra với ngôn ngữ của cảm xúc, khi giúp họ không chỉ là khán
giả của hoạt động nghệ thuật, nhưng còn tham gia vào việc trình diễn (x. DpC
209-212).
Cuối cùng là ngôn ngữ kỹ thuật số. Ngôn ngữ của
việc dạy giáo lý tất yếu giao thoa với mọi chiều kích của truyền thông và những
công cụ của nó. Những kỹ thuật mới tạo ra cơ sở hạ tầng văn hóa mới ảnh hưởng
trên truyền thông và đời sống của con người. Trong không gian ảo mà nhiều người
nghĩ không kém quan trọng hơn thế giới thật, con người tiếp nhận tin tức và
thông tin, khai triển và trình bày ý kiến, dấn thân vào tranh luận, đối thoại
và tìm kiếm câu trả lời cho những vấn nạn của họ. Trong Giáo hội, thường có
thói quen truyền thông một chiều bằng chữ viết, do đó, phải phấn đấu để truyền
đạt cho người trẻ là những người quen thuộc với ngôn ngữ được tạo ra bởi sự tổng
hợp của chữ viết, âm thanh và hình ảnh. Những dạng thức kỹ thuật số của truyền
thông cung cấp nhiều khả năng lớn hơn để thay thế, trong đó chúng mở ra cho sự
tương tác. Những kỹ thuật thông tin và truyền thông, truyền thông xã hội và các
thiết bị kỹ thuật số, tạo điều kiện thuận lợi cho nỗ lực cộng tác, chia sẻ công
việc, trao đổi kinh nghiệm và kiến thức. “Các mạng xã hội, ngoài việc là phương
tiện loan báo Tin Mừng, còn có thể là yếu tố phát triển con người. Chẳng hạn,
trong một số bối cảnh địa lý và văn hóa mà các Kitô hữu cảm thấy bị cô lập, các
mạng xã hội có thể củng cố tinh thần hiệp nhất của họ với cộng đoàn tín hữu khắp
thế giới”[13]. Giáo lý
viên ngày nay phải biết mức độ mà thế giới ảo có thể để lại những dấu ấn sâu
xa, cách riêng nơi những người trẻ hay cho những kẻ yếu hơn, và có thể ảnh hưởng
ra sao trong việc quản lý cảm xúc hay tiến trình xây dựng căn tính của một người.
Thực tại ảo không thể thay thế cho thực tại thiêng liêng, bí tích và giáo hội,
vốn được kinh nghiệm bằng sự gặp gỡ trực tiếp giữa những con người. Điều cần
thiết để làm chứng cho Tin Mừng là dạng thức đích thực của truyền thông, thành
quả của sự tương tác thật giữa những con người (x. DpC 213-217).
“Lời Chúa là nền tảng và linh hồn của việc dạy giáo lý”. Điều
này chẳng có gì mới mẻ, bởi đã được trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến trong
những văn kiện cũng như trong các hội nghị liên quan đến huấn giáo. Trong Thư mục
vụ năm 2005 của HĐGM Việt Nam, với chủ đề “Sống Lời Chúa”, Giáo hội đã có những
quyết tâm như sau : mở rộng lối vào Thánh Kinh cho các Kitô hữu bằng
việc phổ biến Sách Thánh; thúc đẩy họ siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và
cho đời sống cụ thể của mình, bởi Kitô hữu Việt Nam rất siêng năng đọc kinh,
nhưng chưa chú trọng đến việc đọc và suy niệm Lời Chúa; và để Lời Chúa canh tân
đời sống của mình, thì giáo dân – cách riêng các bạn trẻ – được mời gọi: a/ ý
thức mỗi Kitô hữu vừa là người gieo giống, vừa là thửa đất để đón nhận Lời Chúa
(x. Lc 8,5-15). Đối với Lời Chúa, hãy sửa soạn tâm hồn để trở thành mảnh đất
màu mỡ. Đối với tha nhân, hãy trở nên người gieo giống cần cù, kiên nhẫn tin tưởng
không quản ngại chông gai sỏi đá, b/ yêu mến Lời Chúa và biểu lộ lòng yêu mến ấy
bằng hành động như Chúa đã dạy, theo gương Đức Maria. Những quyết tâm này được
khẳng định lại trong Đại hội Dân Chúa Việt Nam năm 2010 với ước mong: “Trong những
năm sắp tới, Hội Thánh tại Việt Nam sẽ đẩy mạnh việc phổ biến và học hỏi Lời
Chúa bằng những phương thế khác nhau, để Lời Chúa thực sự trở thành của ăn nuôi
dưỡng tâm hồn, kim chỉ nam và ánh sáng soi dẫn mọi quyết định và chọn lựa của
các tín hữu”[14].
Thiết nghĩ, những quyết tâm và mong đợi này sẽ mãi mãi là những
quyết tâm và mong đợi trên giấy rồi lui dần vào quá khứ, nếu như việc đọc và
suy niệm Kinh Thánh không trở thành thói quen mà người Kitô hữu Việt Nam gặt
hái được từ công cuộc giáo dục đức tin, cách riêng trong việc dạy giáo lý lấy Lời
Chúa làm trung tâm. Thế mới hay, “Lời Chúa là nền tảng và linh hồn của việc dạy
giáo lý” vốn là chuyện chẳng có gì mới mẻ, lại là chuyện mới toanh, chuyện của
hôm nay như thể chưa bao giờ được kể vậy!
Trích Bản tin HiệpThông / HĐGMVN, Số 134 (Tháng 3 & 4 năm 2023)
WHĐ (15.07.2023)
Ký hiệu viết tắt của các Văn kiện Giáo hoàng và Tòa
thánh trong bài:
CT: Tông huấn Catechesi Tradendae (ĐGH
Gioan Phaolô II, 1979)
DGC: Directoire Général pour La
Catéchèse – Hướng dẫn Tổng quát việc dạy Giáo
lý (Bộ Giáo sĩ, 1997)
VD: Tông huấn Verbum Domini (ĐGH
Bênêđictô XVI, 2010)
EG: Tông huấn Evangelii Gaudium (ĐGH
Phanxicô, 2013)
DpC: Directoire pour la Catéchèse – Hướng dẫn
dành cho việc dạy Giáo lý (Hội đồng Tòa thánh Cổ võ Phúc Âm hóa, 2020)
[1] CĐ Vatican II, Sắc lệnh về
Nhiệm vụ mục tử của các giám mục trong Giáo hội, 44.
[2] Sứ điệp Thượng Hội đồng Giám mục
lần thứ XII gửi Cộng đoàn Dân Chúa, 24/10/2008, 6.
[3] Sứ điệp Thượng Hội đồng Giám mục
lần thứ XII gửi Cộng đoàn Dân Chúa, 24/10/2008, 3.
[4] x. Sứ điệp Thượng Hội đồng
Giám mục lần thứ XII gửi Cộng đoàn Dân Chúa, 24/10/2008, 6.
[5] André Frosson, Le récit en
Catéchèse. Catéchèse comme récit. Le récit de la Catéchèse, trong “La
Catéchèse narrative”, Bruxelles, Lumen Vitae, 2011, trang 98.
[6] Hội đồng Tòa thánh Cổ võ Phúc Âm
hóa, Hướng dẫn dành cho việc Dạy giáo lý, (23/3/2020), 65.
[7] x. Bộ Rao giảng Phúc Âm cho các Dân
tộc, Chỉ dẫn dành cho Giáo lý viên,16/6/1992, 7.
[8] Sứ điệp Thượng Hội đồng Giám mục
lần thứ XII gửi Cộng đoàn Dân Chúa, 24/10/2008, 9.
[9] Bộ Rao giảng Phúc âm cho các
dân tộc, Chỉ dẫn dành cho giáo lý viên, 16/6/1992, 7.
[10] Tông huấn Dạy Giáo Lý của
ĐGH Gioan Phaolô II (16/10/1970), 51.
[11] x. Enzo Biemmi, Invitation
à la catéchèse narrative, trong Enzo Biemmi và André Frosson, “La Catéchèse
narrative”, Bruxelles, Lumen Vitae, 2011, trang 10-11.
[12] x. Gioan Phaolô II, Tông thư Tiến
đến Thiên niên kỷ thứ 3 (4/12/1987), 11.
[13] Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày
Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 47 (24/1/2013).
[14] Sứ điệp của Đại hội Dân Chúa Việt
Nam 2010.