CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ VÀ VIỆC DẠY
GIÁO LÝ
Lm. Vinh Sơn Nguyễn Văn Thanh
WHĐ (21.7.2020) – Hội Thánh luôn coi cộng đoàn Kitô hữu như là trung
tâm huấn giáo. Ở những nơi này, người Kitô hữu được sinh ra, được giáo dục và sống
trong đức tin[1]. Cộng đoàn này còn là nơi phát sinh việc loan báo Tin Mừng để
mời gọi con người trở lại và đi theo Đức Kitô[2]. Riêng trong Tông huấn Dạy Giáo Lý, Hội Thánh đã đề cập đến cộng
đoàn giáo xứ và coi đây là nơi mà dân Chúa quy hướng về, đồng thời là địa điểm
ưu tiên cho công việc dạy giáo lý[3]. Chính vì thế, chúng ta hãy tìm hiểu khái
quát xem cộng đoàn là gì? Và cụ thể, cộng đoàn giáo xứ có liên hệ và có trách
nhiệm gì với giáo lý?
1. Ý NGHĨA VÀ HÌNH THỨC CỘNG ĐOÀN
1.1 Theo nghĩa chung (Communauté)
Cộng đoàn là một
nhóm người có những điểm giống nhau. Họ sống chung với nhau, nhắm cùng một lợi
ích, văn hoá và lý tưởng[4]. Cộng đoàn chủ yếu được xây dựng trên những mối
liên kết không theo lý trí nhưng là tình yêu, tham vọng, tình bạn; những mối
liên hệ ân nghĩa, chủng tộc, ngôn ngữ, số phận v.v... Tinh thần cộng đoàn khác
với xã hội, vì cộng đoàn giả thiết người ta có chung hoặc cùng nhau tìm kiếm một
lợi ích chung, được chia sẻ với nhau, trong tình liên đới huynh đệ[5].
1.2 Theo nghĩa tôn giáo
Cộng đoàn là nhóm
người tin cùng một điều, sống cùng một nơi, dưới một quyền bính, theo đuổi cùng
một việc để người trong cũng như kẻ ngoài đều được hưởng. Tùy theo nhóm người ấy
chia sẻ những điều tin tưởng, cuộc sống và các hoạt động nhiều hay ít mà ta sẽ
có những cộng đoàn sâu sắc hay hời hợt, cũng như xác định được chân tướng của cộng
đoàn ấy trong tư thế là một xã hội loài người[6].
1.3 Các hình thức cộng đoàn
Người ta thường gọi
Hội Thánh là cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức ái (GH 8). Còn những nhóm giáo dân xa nhà thờ quy tụ chung quanh vị
linh mục để cử hành Thánh Thể và các bí tích, thì cũng được gọi là cộng đoàn đức
tin. Trong các cộng đoàn này, Đức Kitô và Hội Thánh hiện diện (GH 26), nhờ việc rao giảng Phúc Âm và tuỳ
thuộc vào Đức Giám mục. Đối với những Kitô hữu ly khai, họ cũng hợp thành cộng
đoàn nhưng không có sự hiệp nhất hoàn toàn với Hội Thánh Công giáo (HN 3,22).
Ngoài ra, người
ta còn sử dụng cụm từ này để chỉ về một cộng đồng nhân loại (MV23-32), cộng đồng quốc tế (MV83-90), cộng đồng chính trị (MV 73-76) và cộng đồng tôn giáo (TD 4,6,13). Ở đây muốn nói đến cộng
đoàn giáo xứ, là cộng đoàn có nhiều liên hệ với giáo lý và các sinh hoạt giáo
lý.
2. CỘNG ĐOÀN LIÊN HỆ VỚI GIÁO LÝ[7]
Ngày nay, người
ta nhấn mạnh đến mối liên kết chặt chẽ giữa cộng đoàn và giáo lý. Kinh nghiệm
giáo lý hiện nay xác tín rằng tất cả sự đổi mới bắt đầu từ các giáo lý viên và
sách giáo lý. Nhưng cả hai lại phải được đổi mới ở trong các cộng đoàn Hội
Thánh.
2.1 Dạy giáo lý là trách nhiệm của cả cộng
đoàn[8]
(1) Cộng đoàn có
trách nhiệm đón tiếp các Kitô hữu vào một môi trường; (2) Giúp họ có thể sống đầy
đủ nhất điều họ đã biết[9]. Kinh nghiệm cho thấy một sự thất bại đang gia tăng
về một thứ giáo lý chỉ giới hạn ở sự nhận biết toàn bộ sứ điệp Kitô giáo một
cách trừu tượng, mà không có sự bảo đảm rõ rệt, cũng như không được minh xác
qua cuộc sống trong cộng đoàn: “Không thể có một cộng đoàn đức tin nếu ở đó
không có sự hiệp thông đức tin”.
2.2 Phẩm chất của cộng đoàn
Trở thành tiêu
chuẩn để xác định xem môi trường này có phải là nơi thích hợp của giáo lý
không? Một cộng đoàn Kitô hữu hoạt động tích cực và đáng tin là điều cốt yếu của
việc truyền bá đức tin và đón nhận đức tin. Trong cộng đoàn, tất cả mọi người
cùng tham gia giáo lý và tất cả các thành viên đều phải làm chứng cho đức tin.
Giáo lý không chỉ đưa người học đến sự trưởng thành đức tin mà còn hướng cả cộng
đoàn đến mức trưởng thành như vậy. (DGC,
221)
3. TRÁCH NHIỆM CỦA CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ ĐỐI VỚI GIÁO
LÝ
3.1 Các linh mục đang cai quản giáo xứ, họ đạo
Các ngài vừa là mục
tử vừa là nhà giáo dục của cộng đoàn Kitô hữu. Đây là chức năng riêng biệt xuất
phát từ bí tích Truyền chức thánh mà các ngài đã lãnh nhận (DGC 224). Chính vì thế, các ngài phải:
- Thúc đẩy trong cộng
đoàn Kitô hữu tinh thần trách nhiệm chung đối với việc dạy giáo lý.
- Chăm lo tổ chức
căn bản việc dạy giáo lý cũng như có một chương trình phù hợp.
- Khuyến khích và
phân định những ơn gọi phục vụ cho việc dạy giáo lý, quan tâm đến việc đào tạo
giáo lý viên bằng cách dành cho việc đào tạo này một sự chăm sóc chu đáo nhất.
- Đưa sinh hoạt
giáo lý vào kế hoạch loan báo Tin Mừng của cả cộng đoàn, đặc biệt quan tâm đến
mối liên hệ giữa giáo lý với bí tích và phụng vụ.
- Bảo đảm việc dạy
giáo lý của cộng đoàn được hoà hợp với những chương trình mục vụ cấp giáo phận.
- Lo huấn luyện giáo
lý cho người lớn, thanh niên và trẻ em. Cổ võ và thúc đẩy cha mẹ chu toàn bổn
phận dạy giáo lý trong gia đình. (CIC 776)
Kinh nghiệm cho
thấy rằng phẩm chất việc dạy giáo lý của một cộng đoàn tuỳ thuộc phần lớn vào sự
hiện diện và hoạt động của linh mục.
3.2 Các tu sĩ đang hoạt động trong giáo xứ
Trong Giáo luật
đã nói rằng: Bề trên dòng tu và các tu đoàn tông đồ phải lo dạy giáo lý cách
chuyên cần trong các nhà thờ, trường học và các cơ sở khác đã được uỷ thác cách
nào đó cho mình. (CIC 778).
Ước mong các tu
sĩ, ngoài việc sống theo linh đạo riêng của Hội Dòng với những hoạt động có
tính cách chuyên biệt, thì cũng cần phải được học tập và trau dồi về mục vụ huấn
giáo, để trong mọi nơi mọi lúc và mọi hoàn cảnh, luôn sẵn sàng dạy giáo lý như
là những giáo lý viên chuyên nghiệp và có khả năng cộng tác với các linh mục để
đào tạo các giáo lý viên giáo dân. Mọi thành phần trong cộng đoàn giáo xứ cần
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để các tu sĩ dạy giáo lý và hoạt động giáo
lý được dễ dàng và có hiệu quả.
3.3 Các thành phần trong giáo xứ hỗ trợ các cha mẹ
trong việc dạy giáo lý gia đình
Nếu cha mẹ hoặc
những người thay quyền cha mẹ và những người đỡ đầu có bổn phận lấy lời nói và
gương lành huấn luyện đức tin cho con cái và dạy chúng sống đời sống Kitô giáo
(CIC 774), thì các cá nhân và các hội
đoàn cũng phải đặc biệt quan tâm đến các bậc cha mẹ qua những cuộc tiếp xúc cá
nhân hoặc những cuộc gặp gỡ chung, những khoá học hỏi và cả việc dạy giáo lý
người lớn dành cho các bậc cha mẹ, hầu giúp họ hoàn thành nhiệm vụ của mình, một
nhiệm vụ rất tế nhị hiện nay, đó là giáo dục đức tin cho con cái. Điều này lại
càng cấp bách hơn nữa trong những nơi mà xã hội không cho phép hoặc làm cho việc
tự do giáo dục đức tin thêm khó khăn. (DGC
227)
Để hỗ trợ cho
công việc này, ước mong, ít là trong giáo phận, cần biên soạn một Sách giáo lý
gia đình với nội dung căn bản và các phương pháp sư phạm cần thiết, được trình
bày một cách đơn sơ, dễ hiểu, để hỗ trợ cho các cha mẹ khi hướng dẫn và dạy
giáo lý cho con cái. Giáo lý này được tiếp nối trong tiến trình giáo lý phổ
thông sẽ được dạy tại các lớp giáo lý của giáo xứ.
4. CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ VỚI SINH HOẠT GIÁO LÝ
Không nghi ngờ gì
nữa, cộng đoàn giáo xứ được mời gọi để trở thành một mái ấm gia đình, huynh đệ,
và niềm nở đón tiếp, nơi mà người Kitô hữu ý thức mình là Dân Thiên Chúa (CT 67c); là nơi thường xuyên cho tín hữu
qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống mầu nhiệm hiệp thông với Hội
Thánh và tham gia vào sứ mạng của Hội Thánh[10].
4.1 Đối với việc dạy và chuẩn bị địa điểm dạy
giáo lý
Cộng đoàn giáo xứ
cần cầu nguyện cho công cuộc huấn giáo, gia tăng và thích nghi các địa điểm dạy
giáo lý tùy theo khả năng và lợi ích[11].
Ước mong mỗi giáo
xứ đều có những nơi dạy giáo lý ổn định, không bị sách nhiễu bởi bầu khí ồn ào
chung quanh; những phòng học giáo lý được trang bị đầy đủ tranh ảnh, bảng phấn,
phương tiện nghe nhìn; được một đội ngũ giáo lý viên có thực lực và nghiêm túc
giảng dạy.
4.2 Đối với giáo lý viên và các sinh hoạt giáo lý
Cộng đoàn giáo xứ
cần quan tâm đến việc bồi dưỡng và khích lệ họ, nhất là những người có hoàn cảnh
khó khăn; thăm viếng các lớp giáo lý; cổ võ việc học giáo lý với những khích lệ
đặc biệt hay định kỳ cho các học viên học giáo lý xuất sắc; hỗ trợ vật chất cho
các sinh hoạt giáo lý như: chương trình đố vui, thi kể chuyện Chúa Giêsu, tham
quan, cắm trại, văn nghệ, khai giảng năm học giáo lý và tổng kết cuối khóa giáo
lý...
4.3 Đối với những em thiếu nhi có hoàn cảnh đặc
biệt
Có cha mẹ rối hoặc
hôn nhân khác đạo, khô khan nguội lạnh, nghèo khó, neo đơn, xa nhà thờ, không
có điều kiện hoặc gặp khó khăn trong việc ghi danh theo học các lớp giáo lý,
Ban Mục vụ giáo xứ, các đoàn thể Công giáo Tiến hành, các nhóm tông đồ, cần
quan tâm gặp gỡ, tạo tình thân, trao đổi, động viên và tạo điều kiện để các em
được học giáo lý và tìm mọi cách để đưa các em tới lớp giáo lý. Mặt khác, cộng
đoàn tiếp tay với các giáo lý viên để tìm cách giải quyết những trường hợp cá
biệt nơi một số các em học giáo lý như: phá phách, thiếu đạo đức, trốn học giáo
lý...
4.4 Đối với các dự tòng
Rất mong các linh
mục, tu sĩ và các giáo lý viên trong cộng đoàn cần dạy giáo lý cho họ một cách
kỹ lưỡng; thanh lọc những ý hướng không ngay lành nơi họ; làm gương và dạy cho
họ biết gặp gỡ Chúa qua kinh nguyện, qua công việc và qua việc cầu nguyện cá
nhân; chuẩn bị thích đáng cho việc lãnh nhận các bí tích.
4.5 Đối với các tân tòng
Cần quan tâm đặc
biệt, bởi vì hơn ai hết, hạt giống đức tin được gieo vào thửa ruộng tâm hồn của
họ trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội mới còn đang chớm nở. Nếu không tiếp tục
chăm sóc cẩn thận, nó sẽ không lớn lên được và sẽ sớm lụi tàn. Việc năng gặp gỡ
cá nhân, tháp tùng để giúp họ sống đạo tốt; tiếp tục bồi dưỡng giáo lý cho họ;
tổ chức quy tụ định kỳ để lắng nghe những băn khoăn, nguyện vọng của họ và tìm
cách giúp đỡ họ, luôn là điều cần thiết. Có nơi đã tổ chức họp mặt các tân tòng
vào dịp lễ Hiển Linh mỗi năm. Trách nhiệm này thuộc về cộng đoàn, trong đó có
các linh mục, tu sĩ và mọi thành phần giáo dân, đặc biệt là về phía những người
đỡ đầu, những thân nhân có đạo và các nhóm tông đồ giáo dân.
Để hỗ trợ cho việc
chăm sóc các dự tòng và tân tòng, thiết tưởng cần biên soạn một sách giáo lý dự
tòng phù hợp với trình độ dân trí và tâm thức của một người khác tôn giáo hoặc
không có đạo có thể hiểu được, chấp nhận được những lẽ đạo và những chân lý đức
tin của Kitô giáo. Sau đó, cần biên soạn một cuốn giáo lý khác dành cho những
tân tòng để giúp họ hiểu biết về Chúa và đạo một cách sâu xa hơn, hầu niềm tin
của họ được củng cố và thêm vững chắc.
ĐỂ KẾT
Hội Thánh sẽ đi về
đâu nếu việc huấn giáo không được quan tâm đúng mức? Việc dạy giáo lý sẽ đi về
đâu nếu không được cộng đoàn tích cực hỗ trợ? Ước mong mọi thành phần dân Chúa
càng ngày càng ý thức hơn bổn phận, trách nhiệm của mình trong cộng đoàn và
trong công cuộc dạy giáo lý mà Hội Thánh luôn coi là một trong những nhiệm vụ tối
quan trọng của mình[12].
__________
[1] THÁNH BỘ GIÁO
SĨ, Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý 1997
(Bản dịch của UBGLĐT), NXB Phương Đông, 2008, s. 253.
[2] Nt., 254.
[3] GIOAN PHAOLO
II, Catechesi Tradendae, 67.
[4] VIỆN NGÔN NGỮ
HỌC, Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa Học
Xã Hội, 1994, trang 205 & TỪ ĐIỂN PHÁP VIỆT, Fahasa, 2002, trang 353 &
Le ROBERT, Dictionnaire de la langue
Française, Paris 1998, tr. 250.
[5] OLIVIER de la
BRÓSSE, Dictionnaire de la Foi Chrétienne,
2006, tr.184.
[6] John
A.HARDON, S.J., Từ điển Công giáo phổ
thông, NXB Phương Đông, 2008, tr.100.
[7] Emilio
ALBERICH, Les Fondamentaux de la
catéchèse , Novalis Lumen vitae, 2006, p.279-283.
[8] THÁNH BỘ GIÁO
SĨ, Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý 1997
(Bản dịch của UBGLĐT), NXB Phương Đông, 2008, s. 220.
[9] GIOAN PHAOLO
II, Catechesi Tradendae, 24.
[10] GIOAN PHAOLÔ
II, Tông huấn Giáo Hội tại Á châu, s.
25.
[11] Nt., s. 67.
[12] GIOAN PHAOLO
II, Catechesi Tradendae, 1.
Trích Tập san HiệpThông / HĐGM VN, số 89 (tháng 7 & 8 năm 2015)